(tiếp theo)
Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nếu nói các truyền
thuyết An Dương Vương là không có thật thì phải giải đáp như thế nào về Loa thành? Nếu nói nước
ta đến năm 43 vẫn là nước độc lập thì
các "thái thú" Tích Quang, Nhâm Diên sang "cai trị" ở đâu?
Tất cả những kết
luận của giáo sư Lê Mạnh Thát đều được đưa ra kèm theo sự so sánh đối chiếu hết sức cẩn thận,
kèm theo là các tài liệu dẫn chứng cụ thể có
thể tra cứu đến tận gốc. Rất
tiếc giới hạn của một bài báo
không cho phép chúng tôi dẫn ra đây, vì nó quá nhiều. Về vấn đề chúng tôi đang
đề cập, có thể xem: Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta - Lê Mạnh
Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006.
Làm trong sạch những trang sử của tổ tiên bờ cõi
Như chúng
tôi đã đề cập, giáo sư Lê Mạnh Thát đề nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của
Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta.
Cần biết, toàn bộ cơ sở để dựng
lên thời kỳ An Dương Vương và Triệu
Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ Đại Việt
sử lược, rồi Đại Việt sử ký
toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục... cho đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vức ký, Quảng Châu
ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài
liệu không rõ nguồn gốc và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại
khái là vào thế kỷ thứ VI, thứ VII), riêng Nam Việt chí thì có
nguồn gốc niên đại rõ ràng (thế kỷ thứ
V), nhưng tất cả đều mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng
tin cậy. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là
Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán
thơ, chúng ta hoàn
toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó
còn có những thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một
nước độc lập. Nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà
bên Trung Quốc là điều đã rõ. Vấn đề là xác định đất đai Nam Việt của Triệu Đà
đến đâu? Kết luận là: Nước Nam Việt
không bao giờ lan ra khỏi địa phận tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Hồ Nam và
Quí Châu cũng như Quảng Tây ngày nay. Ông bảo kết
luận này cũng không phải mới. "Tư không Trương Hoa đời Tấn
viết Bác vật chí 2 tờ 4b11-12 cũng nói: "Nước Nam Việt cùng tiếp với Sở,
Ngũ lĩnh về trước đến tới Nam hải, là nước tiếp giáp biển. Đất Giao chỉ gọi là Nam
duệ". Viết như thế, Giao chỉ rõ ràng không
thuộc đất Nam Việt. Một khi đã kết luận như
vậy, Triệu Đà dĩ nhiên không quan hệ
gì đến nước ta. Phần gọi là "Triệu kỷ" trong các cuốn sử ta từ
Đại Việt sử lược trở đi do thế đáng
nên loại bỏ" (sách đã dẫn).
Việc dùng những tài liệu không đáng
tin cậy để ghi vào sử sách nước nhà, rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát,
là do "những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân
nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho rằng,
để viết lịch sử nước ta vào những thế
kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng
"những báo cáo của Sử ký và Tiền
Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho
việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ
Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn" (như trường hợp về Nhâm Diên, Tích Quang nói dưới đây
và nhiều trường hợp tương tự khác). Tuy
nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp
bội lần" so với những thứ như 4 tài liệu đã
dẫn, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn
gốc rõ ràng như Nam Việt chí, nó
cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu
trăm năm (sách đã dẫn).
Với những sử liệu đã dẫn, vấn đề An Dương Vương đã rõ là một phiên
bản Việt Nam trong bản anh hùng ca Mahãbhãrata, thế thì xử lý như thế nào
về quan hệ giữa An Dương Vương với thành Cổ loa? Giáo sư Lê Mạnh Thát viết:
"Để trả lời câu hỏi đó, trước hết
cần có một ý niệm tổng quát về quá
trình hình thành quan hệ giữa các kỳ quan tự nhiên
hay nhân tạo với các nhân vật kỳ
vĩ, cụ thể là chuyện con trâu vàng
của Không Lộ với Hồ tây. Không Lộ là vị thiền
sư mất năm 1119, thế mà lại có một kết nối việc hình thành Hồ tây
trong truyền thuyết dân gian như Lĩnh Nam
chích quái và Việt điện u linh đã ghi
lại. Vậy, việc kết nối An Dương Vương với thành Cổ loa trong truyền thuyết không nhất
thiết là một sự thật lịch sử, dù sau Lĩnh Nam chích quái, một kết nối như
thế đã được Ngô Sỹ Liên đưa vào Đại Việt sử ký
toàn thư và khoác cho nó một bộ áo lịch sử chính
thức". Dĩ nhiên triều đại Hùng Vương của chúng ta không thể nào không có thành quách,
nên chắc chắn chúng
ta có một cái thành như vậy, nhưng 4 tài
liệu đã dẫn nói về An Dương Vương cũng không nói gì về tên thành Cổ
loa, do đó Cổ loa chẳng qua là một tên gọi được Ngô Sỹ Liên lấy từ truyền thuyết của Lĩnh Nam chích quái để đưa vào
Đại Việt sử ký toàn thư gắn vào An
Dương Vương mà thôi.
Như vậy, các triều đại An Dương Vương và Triệu Đà đã được các
sử gia Việt Nam từ Lê Văn Hưu đến Ngô
Sỹ Liên dựng lên từ những tài liệu không đáng tin cậy, kiểm chứng tới đâu thấy sai tới đó.
Nay với những sử liệu tin cậy có thể
kiểm chứng được đến tận gốc mà giáo sư Lê Mạnh Thát đã chỉ ra, chúng ta có đủ cơ sở loại chúng ra khỏi lịch sử, để làm trong
sạch tổ tiên bờ cõi chúng ta. Một người thì tiêu
diệt vua Hùng (An Dương Vương), một người thì chiếm nước ta (Triệu
Đà), khi đã có đủ chứng cứ là không đúng sự thật,
thì vinh dự gì mà vẫn để tồn tại trong những trang sử của dân tộc?
Nhưng khi khẳng định nước ta là
nước độc lập cho
đến năm Mã Viện đánh bại cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng,
thì giải quyết như thế nào đối với các
nhân vật như Tích Quang, Nhâm Diên được coi là các "thái thú" Trung Quốc cai trị nước ta trước đó? Hai nhân vật
này được sử sách Trung Quốc cho là
những người đến "khai hóa" dân tộc ta, bằng những lời lẽ vô cùng xấc xược, coi dân tộc ta là
"mọi", là "cầm thú", là "sâu bọ chồn cáo" (lời
trong Hậu Hán thơ). Bằng những sử liệu khó chối
cãi, giáo sư Lê Mạnh Thát chứng minh Tích
Quang, Nhâm Diên chưa bao giờ làm thái
thú ở nước ta cả, đó chỉ là sự "hư cấu lố bịch khôi
hài". Lấy thí dụ như Nhâm Diên,
Hậu Hán thơ viết ông này được cử làm thái thú Cửu Chân (nước ta) vào năm Kiến
vũ thứ nhất (năm 25 sau dương lịch), nhưng thời điểm đó cũng theo Hậu Hán
thơ, tình hình chính trị Trung Quốc từ sông Dương Tử về phía nam cực
kỳ phức tạp, các tướng mỗi nơi chiếm một
phương, thiên hạ loạn lạc đến nỗi "vua tự đem quân thân chinh
mà còn bị cản đường, xe ngựa không tiến lên
được", thì làm sao Nhâm Diên đến được Cửu Chân để làm thái thú ? Vả lại,
chứng cứ đanh thép nhất mà sử gia Lê
Mạnh Thát tiếp tục dẫn ra là, sau khi
Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương", Hậu Hán
thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10
việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc". Như vậy rõ ràng nước ta đã có luật pháp. Bộ luật đó một chính quyền ngắn ngủi không
làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc
lập tồn tại từ lâu đời. Nếu nói nước ta lúc đó chỉ là quận, huyện
của Trung Quốc, do các thái thú của Trung Quốc sang cai trị, thì chỗ đâu để có bộ Việt
luật cho Mã Viện điều tấu? Mà nếu có Việt luật, nghĩa là có một nhà nước độc lập, thì Tích Quang, Nhâm Diên "cai trị"
ở đâu?
Lê Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó là
việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương...
Tiếp tục hành trình về thời đại Hùng Vương
Cho đến nay, với nhiều nỗ lực nghiên cứu,
các nhà sử học nước ta đã phát hiện rất nhiều tài
liệu quan trọng về nền văn minh của
nước ta thời đại Hùng Vương, đặc biệt là đã thu thập, giám định, phân tích một khối lượng đồ sộ các di chỉ
khảo cổ học từ văn hóa Phùng
Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn
hóa Đông Sơn. Những nỗ lực đó cho phép phác
thảo bước đầu diện mạo của thời đại khởi nguồn của dân tộc, đủ để bác bỏ những mưu đồ phủ nhận hoặc hạ thấp công lao dựng nước của tổ tiên. Ghi nhớ lời dặn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh "Các vua
Hùng có công dựng nước...", Nhà nước ta đã chính
thức quyết định lấy ngày Giỗ tổ
Hùng Vương làm Quốc Giỗ.
"Sau ngày độc lập, cụ Hồ Chí Minh rất chính xác khi lấy tên Hùng Vương đặt cho con đường chính giữa thủ đô, ngang qua Hội trường
Ba Đình, đó là điều hết sức có ý
nghĩa", giáo sư Lê Mạnh Thát nói với chúng
tôi. Ông lưu ý rằng, không
phải ngẫu nhiên mà trong khi Ngọc phả
nhà Lý mất, Ngọc phả nhà Trần mất, Ngọc phả nhà Lê cũng mất thì Ngọc phả Hùng
Vương lại được lưu giữ, hiện còn 3 truyền bản, 2 truyền bản có từ thời Tiền Lê
(Lê Đại Hành) và 1 có từ thời Lê Thánh Tôn. "Lê Đại
Hành dựng lại Ngọc phả Hùng Vương giữa lúc chuẩn bị đánh Tống. Đánh
Tống là cuộc kháng chiến chống một cường quốc chứ không phải chống đội quân lèo
tèo như Nam Hán. Lê Thánh Tôn nói: Một
tấc đất của tổ tiên cũng không để
mất! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng
Vương". Ông nói tiếp: "Giữa lúc người Mỹ tuyên bố đưa Việt
Nam trở về thời kỳ đồ đá thì Việt
Nam lại có một cuộc khảo sát lớn nhất về thời đại Hùng Vương do chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo. Giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã thực
hiện 4 tập sách về thời đại Hùng
Vương. Đó là một cuộc nghiên cứu nghiêm
túc nhất từ trước tới nay. Lần đầu tiên chúng ta có
một cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng Vương với quy mô lớn, do Nhà nước
chủ trương, chứ không phải là nghiên cứu lẻ tẻ. Chúng ta thu
được những thành quả quan trọng về
khảo cổ học và tập hợp được một số tài liệu chữ
Hán giai đoạn đầu. Điều đó rất có ý nghĩa và
cần được tiến hành tiếp tục".
Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề quan trọng về lịch sử của thời đại này
vẫn đang bị bỏ ngỏ hoặc bế tắc, trong đó có vấn đề chữ viết, luật pháp cùng
những vấn đề căn
bản khác của một nhà nước mà chắc chắn là
nó phải có trong thời đại Hùng Vương.
Bởi vậy, những khám phá của giáo sư Lê
Mạnh Thát có ý nghĩa vô cùng.
Sau khi đưa ra các minh chứng để đề
nghị loại bỏ hai triều đại An Dương Vương và Triệu Đà ra
khỏi lịch sử và xác định thời đại Hùng Vương tồn
tại cho đến năm 43, giáo sư Lê
Mạnh Thát tiếp tục phát hiện thêm
những tài liệu quan trọng có thể khai
thông những bế tắc từ bấy lâu nay.
Việc tồn
tại của Việt luật (mà Mã Viện "điều tấu"), theo giáo sư
Lê Mạnh Thát, cho phép chúng ta giả thiết rằng
tiếng nước ta vào thời điểm đó (thời Hai Bà Trưng) đã phát triển đến một mức
độ chính xác nhất
định và có một hệ thống chữ viết đủ rõ ràng để
ghi chép các quy định của luật pháp.
Vấn đề là Việt luật hiện nay không còn,
điều đó không có gì là lạ, vì chính Hán luật cũng không còn. Chúng ta cũng chưa tìm được chữ viết trong các di chỉ khảo cổ học. Điều đó
cũng không có gì lạ và chưa tìm được không có nghĩa là nó không có, bởi ngay
đến chữ viết thời Lý - Trần mà vẫn
không tìm được trên các di chỉ khảo cổ học khai quật tại Hà Nội, trừ bia Lý
Thường Kiệt và vài tấm bia ít ỏi khác tìm được ở rất xa ngoài Thăng Long.
"Lịch sử Lý - Trần rực rỡ như vậy mà không còn một tấm bia nào ở thủ đô hết,
chúng (nhà Minh) nhất định không để
lại một vết tích nào của lịch sử. Đến nỗi,
ông Hoàng Xuân Hãn phải đề nghị một hướng mới là tìm nó dưới nước, tức là khảo sát dưới hồ Tây", thiền sư Lê Mạnh Thát bức xúc. Nói thế để
thấy kẻ thù thâm độc như thế nào trong
mưu đồ triệt hạ văn hóa của dân tộc ta, triệt hạ tận gốc để dân ta không biết gốc tích
của mình.
Truy lại chữ
viết của tổ tiên vì vậy mà trở nên thiên nan vạn nan. Nhưng không phải không có cách. Giáo sư Lê
Mạnh Thát nói đầu thế kỷ trước, người Pháp đã khai quật một ngôi mộ cổ ở Bắc
Ninh, phát hiện một thứ chữ viết trên
gốm, "giống chữ Hán nhưng người Hán không đọc được", nghĩa là một
thứ chữ viết theo kiểu Hán nhưng không
phải chữ Hán, đó rất có thể là chữ Việt.
Theo ông, chúng
ta hiện có hai nguồn tư liệu cơ
bản: Nguồn thứ nhất là Lục độ tập kinh cùng
các dịch phẩm khác của Khương Tăng Hội là
Cựu tập thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú
giải và Tạp thí dụ kinh do
một tác giả vô
danh thực hiện. Ông đã khảo cứu một
cách công phu tường tận ngữ âm tiếng
Việt còn lưu giữ trong những tập kinh này. Chẳng hạn, để diễn tả ý niệm "trong
lòng", Lục độ tập kinh có hai
dạng cấu trúc. Dạng thứ nhất tập trung ở quyển 7 có 7 trường hợp dùng "tâm trung" (cấu trúc
ngữ âm tiếng Trung Quốc), dạng thứ hai có
8 trường hợp rải đều trên 6 quyển dùng
từ "trung tâm" (cấu trúc ngữ âm tiếng Việt). Khảo sát tiếp Kinh Thi do Khổng Tử san
định, trong 305 bài thì có 15 bài dùng "trung tâm". Sau Kinh Thi là Lễ ký do ảnh hưởng của Kinh
Thi có 4 lần sử dụng "trung
tâm". Và trong 300 năm đầu sau dương lịch, dạng "trung tâm"
hầu như không được các học giả Trung Quốc dùng
tới, nếu có vài trường hợp thì đều là
ở dạng trích từ Kinh Thi hoặc nhái
theo Kinh Thi mà thôi. Thế mà Lục độ tập kinh, với 91 truyện, có 8 lần sử dụng cấu trúc đó, tỷ lệ gần 1/10, cao hơn nhiều so với Kinh Thi (15/305). Trong 7 lần sử dụng dạng "tâm trung", có khả
năng ban đầu cũng dùng dạng
"trung tâm", sau bị điều chỉnh lại,
là do nó chỉ tập trung trong quyển 7, là quyển chủ yếu trình bày về
thiền, chắc chắn do nhu cầu tìm hiểu về thiền nên nó được lưu hành rộng rãi qua
nhiều tay người đọc Trung Quốc và quá
trình đó đã được nhuận sắc cho đến khi
được khắc bản vào năm 927, trong khi cấu trúc dạng "trung tâm" tiếp tục tồn tại trong
các quyển kia của Lục độ kinh.
Trong Lục độ kinh còn có một số cấu
trúc ngữ âm tương tự, ví dụ như cấu trúc
"thần thọ" có nghĩa là "thần cây" chứ không phải "cây
thần" như tiếng Trung Quốc...
"Bộ Việt luật còn
đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà
cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ
Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói !" (Thiền sư Lê
Mạnh Thát).
Thiền sư nổi giận
Ngoài việc phát hiện việc Lục độ tập kinh chữ Hán "không chấp
hành" nguyên tắc ngữ âm tiếng Trung Quốc như trường hợp cấu trúc "trung tâm", trong
khi dịch tập kinh này ra tiếng Việt hiện nay, giáo sư Lê Mạnh Thát còn phát
hiện các trường hợp Khương Tăng Hội dùng "tá âm" hoặc
dùng thuần túy tiếng Việt, chỉ phiên
âm ra nó lập tức biến thành những câu tiếng Việt dễ hiểu. Ông lưu ý do Khương Tăng Hội "sinh ra, lớn lên và đào tạo thành tài ở nước ta" cho nên
khi phiên dịch và trước tác dứt khoát không thể nào không chịu ảnh hưởng của tiếng Việt trên cả ba mặt ngữ vựng,
ngữ pháp và cú pháp, song Khương Tăng Hội lại là người sử dụng tiếng Trung
Quốc tới mức "nhuần nhuyễn của một diệu thủ" thì lẽ ra
những ảnh hưởng đó phải bị hạn chế tối đa, thế thì tại sao Lục độ tập kinh tồn
tại nặng nề và sâu đậm đến vậy những "tàn dư" của ngữ
vựng, ngữ pháp và cú pháp tiếng Việt ?
Chỉ có thể giải thích là tập kinh đó
đã được dịch ra chữ Hán bằng một nguyên bản tiếng Việt.
Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát:
"Khi đối chiếu cấu trúc "trung
tâm" trong Lục độ tập kinh chữ
Hán với ngôn ngữ của Trung Quốc, thầy viết rằng, "kiểm soát toàn bộ văn liệu" tiếng Trung Quốc (do người Trung Quốc viết) từ đầu thế kỷ thứ I sau dương
lịch trở về sau cho đến thế kỷ thứ III, trong khoảng thời gian 300
năm, cấu trúc "trung tâm" chỉ được dùng đúng 3
lần, trong khi cấu trúc này được dùng phổ biến trong Lục độ tập kinh. Nói như vậy có nghĩa là
để đối chiếu chỉ hai chữ "trung
tâm", thầy đã phải đọc hết tất cả của Trung
Quốc trong 3 thế kỷ?". Ông bảo: "Đúng vậy. Không đọc hết
thì làm sao mà khảo sát, đối chiếu được!". Liên quan đến tiếng Việt trong Lục độ tập kinh, ông còn chỉ ra một nguồn tài liệu quan trọng thứ hai. Đó là sách Thuyết
Uyển của Lưu Hướng, tồn tại từ
năm 16 trước dương lịch mà "không có nhà nho nào là không biết". Đây
là bộ sách duy nhất chép lại nguyên
văn một tác phẩm văn học khác với tiếng Trung Quốc, đó là bài Việt ca. Thuyết
Uyển không phải là một cuốn sách thường, nó là cuốn sách được viết để
"dâng vua", cho nên tài liệu được
nó sử dụng phải là những tài liệu được kiểm chứng, trong đó có tài liệu lấy từ "Trung thư", tức là một
loại thư viện của hoàng gia. Điểm hết sức thú vị của
bài Việt ca chép trong Thuyết Uyển là nó
"ghi bằng chữ Hán mà người Hán không đọc được", phải "dịch ra
tiếng Sở", tức là kèm theo một bản dịch tiếng Trung Quốc. Dù Lưu Hướng nói rõ đó là bài ca "do
người Việt ôm mái chèo mà ca", nhưng hơn hai ngàn năm nay chưa một
ai nghiên cứu giải mã bài ca này,
ngoài sự cố gắng tìm hiểu của Quách Mạt Nhược (từng là Chủ tịch
Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc) cho rằng bài ca này là của người Choang
vùng Quảng Tây Trung Quốc ngày nay, và
một học giả người Nhật cho bài ca đó
là của... Chiêm Thành. Giáo sư Lê Mạnh Thát đã dành nhiều thời gian, thông qua nhiều tài liệu để giải mã và bước đầu phục chế diện mạo tiếng Việt của bài Việt
ca này (xem Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta, chương IV, sđd, và Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM, trang 41-47).
Như đã nói, mỗi lần tràn sang là mỗi lần
kẻ xâm lược hủy diệt một cách tàn độc
tất cả những gì có thể để cho văn hóa được lưu truyền, đặc biệt là
việc tận diệt bia đá một cách có hệ thống sau
khi "thu gom" hết sách vở, nhưng với những gì còn lưu lại của bốn
ngàn năm văn hiến và những nỗ lực mới nhất của những nhà khoa học đầy tâm
huyết và trách nhiệm với tổ tiên như Lê Mạnh Thát, chúng ta có cơ sở để khẳng định chắc chắn là chúng
ta đã có chữ viết từ thuở
các vua Hùng. Kẻ xâm lược quyết không
cho người Việt biết đến "mặt chữ" của tổ
tiên, nhưng dấu tích nó vẫn còn
đó: trong kinh Phật, trong chính sách vở của Trung
Quốc và còn lẩn khuất ở đâu đó nữa.
Cùng với việc khảo sát trong lòng đất và "dưới nước" như hướng mà
giáo sư Hoàng Xuân Hãn đề nghị, hướng nghiên cứu của
giáo sư Lê Mạnh Thát rất cần được sự đồng hành, phối hợp của nhiều nhà sử học khác.
Tôi
hỏi ông: "Thầy nghĩ gì về ý kiến cho rằng có thể tìm vết
tích chữ viết thời
Hùng Vương trên mặt trống đồng?". Ông nói: "Có giả thiết như
vậy, nhưng khảo sát những hoa văn trên trống đồng chúng ta không thấy chúng có liên quan đến chữ viết, vì chữ viết phải
có quy luật về
cấu trúc của nó. Suy
đoán từ những giả định không có cơ sở sẽ khó có sức
thuyết phục". Việc nghiên
cứu ngôn
ngữ cổ, nhất là ngữ âm cổ rất phức tạp. Chẳng hạn người Trung Quốc cũng
như người Việt 2.000 năm trước phát âm như thế nào ngày nay chúng ta không
biết được, để nghiên
cứu nó giáo sư Lê Mạnh Thát đã phải dùng hệ phát âm tiếng Trung Quốc thời
Hán của Karlgren, là công cụ mà các nhà Hán học đều thống nhất, rồi đối chiếu với
những tài liệu đánh dấu sự biến đổi ngôn ngữ để
truy lùi về thời điểm nghiên
cứu, và cũng bằng phương pháp tương tự, ông đối chiếu những mối liên hệ giữa
tiếng Trung Quốc,
tiếng Việt và các loại ngôn ngữ khác trong
vùng (chữ Phạn, Chăm, Khmer, tiếng nói các dân tộc Trung Quốc giáp
giới với Việt Nam...)
để phác thảo diện mạo tiếng Việt của bài Việt
ca, bác bỏ kết luận sai trái của
Quách Mạt Nhược và học
giả người Nhật nói trên... (bạn
đọc muốn tìm
hiểu sâu hơn, xin xem
các sách đã dẫn).
Tiếp theo và cùng với chữ viết là lịch pháp. Lâu nay chưa ai biết dân
tộc ta thời đại Hùng Vương sắp xếp
ngày tháng như thế nào. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng đoán: "Văn hóa Trống
đồng của nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-30 ngày cũng không hẳn là vô lý"
(Lịch và lịch Việt Nam,
Tập san Khoa học xã hội,
Paris, 1982, trích từ Lê Mạnh Thát, Lịch
sử Phật giáo Việt Nam tập
1, NXB Tổng hợp TP.HCM 2006, trang 71). Nay những phát hiện trong Lục độ tập kinh cho
phép khẳng định được lời đoán của giáo sư Hoàng Xuân Hãn.
Những câu chuyện ghi trong tập kinh
này cho thấy, nước ta thời Hùng Vương đã dùng hệ thống lịch chia năm ra 360 ngày,
phân bổ thành 4 mùa, mỗi mùa có 3 tháng và đã dùng đơn vị tuần, mỗi tuần 7 ngày. Đối chiếu với những tài
liệu cổ Trung Quốc thì
thấy hệ thống lịch nước ta khác với
lịch Trung Quốc cùng thời, vì
lịch Trung Quốc thời đó mỗi năm 366
ngày và một đơn vị tuần của họ có tới
10 ngày. Nó cũng không giống Ấn Độ, vì tuần
của Ấn Độ thời đó có 15 ngày.
Phát hiện này cho phép kết luận nước ta thời Hùng Vương đã có
lịch pháp riêng của một nhà nước độc lập.
Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, để bảo lưu được một hệ thống lịch pháp như thế, các câu chuyện trong Lục độ tập kinh chắc chắn phải được lưu truyền "vào thời hệ thống lịch đó còn hiệu lực", tức
là từ năm 43 trở về trước,
bởi vì sau năm đó nhà Hán đã chiếm nước ta, một sự bảo lưu như thế dứt khoát không thể nào xảy ra dưới bộ
máy đàn áp của Mã Viện...
Những kết
luận của giáo sư Lê Mạnh Thát có thể và cần được các nhà
sử học tiếp tục bổ sung,
nhưng không có gì thái quá khi
nói rằng với phát hiện đó trên nền tảng những thành
quả quan trọng trong cuộc nghiên
cứu lớn về thời Hùng Vương trong thời gian chống Mỹ, chúng ta có thể và phải dựng lại lịch sử thời đại Hùng
Vương với những sự thật của
nó. Nó một lần nữa chứng minh việc Nhà nước ta lấy ngày giỗ
tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ là vô cùng đúng đắn.
Là nhà tu
hành nhưng thiền sư Lê
Mạnh Thát đã không kìm nén tức giận khi thấy người ta "thóa mạ làm
nhục tổ tiên mình với kiểu ăn
nói của Ngô Sỹ Liên: Nước ta hiểu thi, thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến,
bắt đầu từ Sỹ Vương. Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt
ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn
nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ
nói!". Sự nổi giận của
vị thiền sư này rất cần được
sự hưởng ứng của tất cả những ai còn coi mình là con cháu Lạc Hồng...
Không có cái gọi là thời kỳ "Bắc thuộc lần thứ
nhất". Việc lập 9 quận, trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thuộc
Hán chỉ là sự "đoạt khống" đất đai nhằm thỏa
mãn não trạng và ao ước bành
trướng của nhà Hán mà thôi.
Nhà Hán "đoạt khống" đất đai
nước ta
- Nếu nước ta thời Hùng Vương vẫn là một
nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai đoạn “Bắc
thuộc lần thứ nhất” không tồn tại? - Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát.
- Đúng vậy. Phải loại phần đó ra khỏi lịch sử. Chúng
ta có đủ chứng cứ để
làm như vậy.
- Nhưng sử sách vẫn còn ghi: năm
214 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng đem quân đánh lấy đất
Bách Việt, sau đó chia làm ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận mà Tượng
Quận là nước ta?
- Nam Hải, Quế Lâm ngày nay nằm trong
hai tỉnh Quảng Đông và Quý Châu Trung Quốc thì đã rõ rồi, nhưng Tượng Quận thì
không phải. Một số tài liệu Trung
Quốc có chép một cách lầm lạc rằng
nó là Nhật Nam (nước ta) sau này, nhưng đối
chiếu với những tài liệu tin cậy cũng
của chính Trung Quốc, từ rất sớm người ta đã biết Tượng
Quận nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ
không phải nước ta.
- Sử Trung
Quốc cũng ghi rõ, năm 111 trước
công nguyên, Hán Vũ đế đã
chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà và đặt 9 quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm,
Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai và Đàm Nhĩ thuộc Hán.
Nếu cho đến năm 43 nước ta
vẫn độc lập thì giải thích làm sao việc nước ta gồm ba
quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam
nằm trong đất nhà Hán trước đó?
- Đối chiếu với chính
sử Trung Quốc ta
đã thấy Triệu Đà chưa bao giờ chiếm Tây Âu lạc cả và Hán Vũ đế cũng
chỉ chiếm Nam
Việt của Triệu Đà. Rõ ràng là họ đã gom Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật
Nam
vào đất Hán một cách vô căn cứ. Việc này không có gì lạ, sử Trung Quốc còn
chép rằng năm 202 (trước CN) Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố của Hán Vũ đế lấy
các đất Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải của Triệu Đà phong cho Ngô Nhuế, nhưng ba
nơi đó là của Triệu Đà. "Đà chưa hàng, xa đoạt khống, lấy phong cho Nhuế
vậy". Đất chưa lấy được mà "đoạt khống" làm đất của mình, chuyện
đó là bình thường, không chỉ Lưu Bang mà trở thành thói quen cho
các triều đại về sau này nữa... Bởi vậy việc
"đoạt khống" ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam của ta không có gì lạ. Việc
"đoạt khống" này có ba chứng cứ: Thứ nhất, Tiền Hán thơ ghi rõ rằng
Thứ sử Giao Chỉ "đóng ở Thương Ngô", nghĩa là quân Hán chưa bao giờ đặt
chân tới Giao Chỉ. Thứ hai, sử liệu Trung Quốc cũng cho thấy, việc đưa những người phạm tội đi
đày thời đó chỉ đưa tới Hợp Phố chứ không hề thấy đưa đi xa hơn,
tuy chưa phải là chứng cứ quyết định, nhưng cũng biểu thị rằng biên cương cực
nam của nhà Hán chưa qua khỏi Hợp Phố, là vùng giáp giới với nước ta. Chứng cứ
thứ ba là việc sử liệu Trung Quốc ghi "Phiên Ngung là một đô
hội", đây là chi tiết khá khác thường, bởi Tiền Hán thơ đưa
ra con số thống kê nhân khẩu cho thấy quận Nam Hải có 6 huyện chỉ vỏn vẹn có
94.253 dân, bình quân mỗi huyện, trong đó có Phiên Ngung, có trên dưới 15 ngàn
dân, trong khi số dân Giao Chỉ 10 huyện số dân lên tới 764.237 người, bình quân
mỗi huyện trên 75 ngàn dân, gần bằng số dân của cả Nam Hải. Đó là chưa kể Cửu
Chân và Nhật Nam, dân số cộng lại cũng có trên 200.000 người. Thế mà lại nói
"Phiên Ngung là một đô hội". Điều không hợp lý này
chỉ có thể được giải thích là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
trong thực tế không thuộc đất Hán. Có thể hỏi tại sao
ba quận này không phải của nhà Hán mà nhà Hán lại có số liệu về "hộ
khẩu", câu trả lời cũng thật đơn giản:
Đọc trong Tiền Hán thơ, ta có thể bắt gặp một loạt tên các quốc gia độc lập ở
Trung Á, chưa bao giờ "thuộc Hán", nhưng vẫn có số
liệu hộ khẩu như thường. Cho nên, nhà Hán có số liệu về hộ khẩu không nhất thiết nó
thuộc nhà Hán.
Dù là Âu Lạc, Tây Âu, Tây Âu Lạc, Tây
Vu, Việt Thường Thị hay Giao Chỉ - Cửu Chân - Nhật Nam, cũng đều là những tên gọi khác
nhau của nước ta. Cần biết, các triều đại phong kiến Trung
Quốc không bao giờ muốn nước ta độc lập cả, ngay cả khi nước ta có quốc
hiệu đàng hoàng như Vạn Xuân (Lý Nam Đế), Đại Cồ Việt (Đinh Tiên Hoàng) hay Đại
Việt (Lý-Trần), sử sách Trung Quốc vẫn tiếp tục dùng những cái tên Giao
Chỉ, An Nam để gọi một cách tùy tiện. Việc "đoạt khống" đất
đai, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là "nhằm thỏa
mãn não trạng và ao ước bành
trướng" của họ.
Trao đổi với chúng tôi,
giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng chỉ riêng văn minh trống
đồng thôi mà chúng ta đã có
chứng cứ rành rành. Với một nền
khoa học kỹ thuật phát triển rất cao thời đó như vậy, một nền kỹ thuật không ai
có thể chối cãi, thì không có lý gì
mà chúng ta lại không có một
nền văn hóa - giáo dục tương
ứng.
Nền văn hóa đó
vẫn được bảo tồn. Trung Quốc có Thi Thơ Lễ Nhạc. "Nếu
nói Thi chúng ta có cùng chùm truyện trong Lục độ tập kinh,
Cựu tạp thí dụ kinh và bài Việt ca. Nếu nói Thơ chúng ta có truyền thuyết trăm
trứng. Nếu nói Lễ chúng ta có bộ Việt luật. Nếu nói Nhạc ta không
chỉ có bài Việt ca mà còn có trống đồng...". Nói thêm về văn học, ông cho rằng "nền văn học thành văn của dân tộc ta không
phải bắt đầu từ Trần Nhân Tông và
Nguyễn Trãi, hay Khuông Việt và
Từ Đạo Hạnh... mà nó đã bắt đầu từ
thời Hùng Vương mà bằng chứng còn lại là bài Việt ca, cụm chuyện thần thoại và cổ tích đầu tiên tìm thấy trong Lục độ tập kinh.
Phân tích trong Lục độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ ra 5 truyện
trong tập kinh này tương đương với 5 truyện cổ tích do
Nguyễn Đổng Chi tập hợp trong Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, như
vậy "chúng ta không còn bàn cãi một
cách tùy tiện không có cơ sở về nền văn học "dân
gian" chung chung phi thời gian,
phi lịch sử".
Như vậy là từ thời Hùng Vương chúng ta đã có một nền văn hóa riêng, tạo nên bản lĩnh dân tộc.
Đó là nền tảng cho những cuộc đấu tranh trường kỳ,
khốc liệt bảo vệ đất
nước, bảo vệ nòi giống. Dân
tộc ta không những không bị đồng hóa,
mà nền văn hóa của dân tộc ta
còn được du nhập vào văn hóa Trung
Quốc mà Lục độ tập kinh - không chỉ là kinh Phật mà còn
là tác phẩm của "bậc
thánh hiền" như chính người Trung Quốc gọi
- là một trong những ví dụ.
Nhưng không chỉ có vậy. Theo giáo sư Lê
Mạnh Thát, từ sau khi Mã Viện đánh bại Hai Bà Trưng cho đến khi Chu Phù, Sỹ Nhiếp cai trị
nước ta, lịch sử cũng có
nhiều vấn đề cần đặt lại. Và
trong thời gian này xuất hiện một nhân vật lớn là Mâu Tử, một người Việt Nam, với tác
phẩm nổi tiếng Lý hoặc Luận được lưu truyền trong nền văn hóa điển chương Trung Quốc, một bằng chứng hùng hồn về sự nổi
trội của văn hóa Việt Nam
"Giả như người nước ta không ghi
lại những sự việc của Lê Hoàn (hoàng đế Đại Hành) và chúng
ta phải nghiên cứu qua
tư liệu của người Trung Quốc, thì
một đoán án đương nhiên phải
xảy ra, đó là Lê Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xã tắc gì
hết, ngược lại chỉ là một tiết độ sứ,
một quan chức của nhà Tống" (thiền sư Lê Mạnh Thát).
Sỹ Nhiếp là ai?
Có thể có ai đó trong giới sử học
"ý kiến ra ý kiến vào"
về những phát hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng
tôi đang giới thiệu một
phần hết sức tóm lược. Mong
rằng những người quan tâm có
thể tìm đọc các công trình của
ông để trao đổi học thuật. Chúng
tôi xin lưu ý,
những gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư Lê Mạnh Thát
đã công bố từ cách đây trên
dưới 40 năm, nay được in lại trong hai bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam(tập 1)
và Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), đều do
NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi
nguyên của dân tộc ta mà chúng tôi đã
dẫn. Trong những công trình này,
mỗi một vấn đề đưa ra ông đều
dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những ngôn ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể,
chỉ rõ số trang, số tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi
ngờ thì có thể tra tận gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và
chữ Trung Quốc hiện nay, cùng
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ...
Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như
trên để nói rằng những sử liệu từ Trung Quốc là
"không hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính sử Trung
Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những người đó chỉ được
"phong khống" chứ chưa bao giờ bước
chân qua nước ta. Việc nghiên cứu lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi đối chiếu với chính sử Trung
Quốc để thẩm định,
xác minh tìm ra sự thật. Cho nên, mỗi một cuộc truy tìm, mỗi
một phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến cho lịch sử nước nhà trở nên sáng rõ.
Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ
giặc Tàu" như lời bài hát của
Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính
xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng
chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng
nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất đã nổ ra
vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu
Liên lập khu tự do vào năm
138, làm hậu phương cho các
cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời
Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong
hơn 150 năm bị các thái thú Trung Quốc đến
đô hộ, chúng ta "mất
nước chứ không mất hạnh", nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương vẫn
được bảo tồn và phát triển.
Sự quật cường của dân tộc
chính người Trung Quốc cũng
phải thừa nhận: "Trưởng
lại đặt ra, tuy có cũng như không".
Có một nhân vật lạ lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp.
Cả sử Trung Quốc và sử ta đều
nói ông là thái thú Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái
thú" đến cai trị, nhưng các sử gia Việt Nam đều
dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ
Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính
trọng kẻ sĩ, được
người thân yêu mà đạt
đến thịnh một
thời". Ngô Sỹ Liên cũng vậy. Trần Trọng Kim thì viết: "Sỹ
Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy
bảo dân cho nên lòng
người cảm mộ công đức, mới gọi tên là Sỹ Vương".
Khi nhân dân gọi Sỹ Nhiếp là
"Sỹ Vương", tức là vua của mình, còn có lý
do nào nữa không?
Phần trước chúng
tôi có nêu sự "nổi giận" của giáo sư Lê Mạnh
Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc
thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương", cần nói rõ
là ông bất bình với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc mới thành
ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như Trần Trọng
Kim viết: "Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là
khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải" (Việt Nam sử
lược).
Đưa ra nhiều tài liệu dẫn
chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187),
cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ Chu Phù "vứt
điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ
Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô
chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ
tiên vốn người Mấn
Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời".
Ông cho rằng một người có tổ tiên 6
đời ở Việt Nam thì đã
"Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ
phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về
chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường
vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ
thuộc đều được nhờ
ân"; "Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu,
riêng ở vạn lý, uy tôn vô
thượng. Ra vào đánh
chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ
theo sát đốt hương, thường
có mấy mươi. Thê
thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng,
chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh
Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu được đào tạo trong
khuôn mẫu Trung Quốc, đã có
những hành vi xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa.
Việc Ngô chí so sánh Sỹ Nhiếp
với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà
Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ Nhiếp,
nước ta đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ
mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh
Dương dĩ nam dị vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ
Nhật Nam" (Văn tuyển 5
tờ 9b4). "Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương, vải
mỏng thường tới số ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu
ly, lông thú, đồi mồi,
sừng tê, ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn, không năm
nào không đưa đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về
những cống vật mà Sỹ Nhiếp
gửi đến Tôn Quyền).
Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết
(226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên
nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một
nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ
Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn
Quyền, tuy nhiên do
mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ
Huy bị bắt và bị giết, Tôn
Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền
cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh
(Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền.
Về sự kiện Bà
Triệu khởi nghĩa, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là cuộc "khởi nghĩa
thành công". Ông viết: "Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và
thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung
Quốc đối với nước ta. Và cuối
cùng Lục Dận cũng có thể báo
cáo là đã "dẹp yên được giặc Giao Chỉ" và
được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của Giao
Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, vì nó ngó ra biển (lâm
hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ 10b3
đã ghi nhận. Nói cách khác, nước
ta từ năm 248 tiếp tục là một
nước độc lập và Bà
Triệu tiếp tục đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy
chí 4 tờ 27a3 viết là Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho
thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đã ghi nhận là Bà Triệu đã bị tử trận trong
một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân sau khi đã tiêu
diệt Lục Dận (...). Những mô
tả này (trong Thiên Nam ngữ lục) hoàn toàn phù hợp với
tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất
(264) của Tào Hoán..." (Lịch sử Phật
giáo Việt Nam tập
1, trang 385-386)...
Mỗi một di
sản của tổ tiên đều
phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ
tiên đều phải được gìn giữ.
Một minh chứng văn hóa
Những phát hiện nói trên của giáo sư Lê
Mạnh Thát cho phép dựng
lại lịch sử dân tộc
trong thời kỳ nước nhà không
có sử liệu, sử sách được viết chủ yếu căn cứ theo các tài liệu của Trung Quốc. Việc khẳng định chủ quyền của dân
tộc thời trước Hai Bà Trưng, thời Sỹ Nhiếp và sau đó nữa là có cơ sở. Những
phát hiện về văn hóa, bắt đầu
từ Khương Tăng Hội với Lục độ tập kinh và Mâu Tử với Lý
hoặc Luận, đặc biệt là sự kiện 6 lá thư đề cập dưới đây càng
minh chứng cho điều đó.
Lý hoặc Luận của Mâu Tử là
một tác phẩm nổi tiếng, được viết vào cuối thế kỷ thứ II
(198) và được lưu hành tại Trung Quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ V,
có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Nó còn là "sách gối đầu
giường" của người Phật tử Viễn
Đông, cụ thể là Trung Quốc và Nhật Bản. Đến nửa đầu thế kỷ XX, một loạt
những nghiên cứu của
các học giả Trung Quốc, Nhật
Bản và Pháp được công bố về tác phẩm này, gây nên một cuộc tranh biện sôi nổi và hào hứng, bắt đầu
từ công trình của Lương Khải Siêu, tiếp đó là của H.Maspéro,
Tokiwa Daijo, P.Pelliot, Chu Thúc Ca, Hồ Thích, Matsumoto Bunzaro, Dư Gia Tích và
Fukui Kojun (dẫn theo Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập 1).
Ở Việt Nam, nó cũng được coi là
cuốn sách lý luận được quan tâm từ hơn 1.000 năm trước, đặc biệt từ năm 1932 khi Trần Văn Giáp giới
thiệu Mâu Tử là
"người đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Việt Nam", cuốn sách đó
được sự quan tâm rộng rãi của giới học giả và nhiều người dân. Trong
khi nghiên cứu Lục độ tập kinh,
giáo sư Lê Mạnh Thát đã phát hiện những mối liên hệ thú vị và trên cơ sở một cuộc khảo
sát hết sức công phu, ông đã tìm ra bằng chứng khẳng định Mâu Tử là người Việt Nam và Lý hoặc Luận chính
là tác phẩm của Việt Nam truyền sang Trung Quốc. Công
trình nghiên cứu này
của ông đã được công bố một
phần trước năm 1975 và công bố toàn bộ sau này (xem Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam,
tập 1).
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát:
"Trong bối cảnh văn hóa thời Mâu Tử, Lý
hoặc Luận không
phải viết để xiển dương Phật giáo,
mà là một cuộc tổng kết cuộc
đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối
với văn hóa phương Bắc".
Phải có một bề dày văn hóa như
thế nào mới có thể có được một bản lĩnh văn hóa như
vậy. Một bên thì áp đặt Thi Thư như chân lý, Trung Hoa là trung tâm, một bên Mâu Tử đáp trả "Đất Hán chưa
chắc là trung tâm của trời đất", "năm
kinh chưa hẳn là lời của thánh hiền". Tiếp cận tác phẩm của Mâu Tử, chúng ta còn
thấy dân tộc ta đã bảo tồn văn hóa của mình như thế nào, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của Phật giáo, Nho
giáo và Lão giáo để
phát triển nền văn hóa của
mình như thế nào và truyền bá văn hóa của mình ra nước ngoài ra sao.
Sáu lá thư và một vị vua
Một phát hiện cực kỳ quan trọng khác của
giáo sư Lê Mạnh Thát là 6 lá thư nằm trong Đại
tạng kinh chữ
Hán. Đó là 6 lá thư trao đổi giữa
hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh với một "sứ quân"
của Giao Châu tên là Lý Miễu. Trước khi ông công bố 6
lá thư này, chưa có một tài liệu nào
đề cập tới. Từ điểm gây tò mò đầu tiên trong 6 lá thư là địa danh "Giao
Châu", ông đã tiến hành một cuộc truy tìm ngoạn
mục. Trước hết là tìm nguồn gốc Việt
Nam về
mặt điển cố lịch sử, tìm nguồn gốc Việt Nam về
mặt điển cố thư tịch, kế đó
là tìm niên đại và tung tích tác giả 6 bức thư.
Khó khăn nhất là tìm ra tác giả của
chúng. Ông bảo tung tích của
những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và
Lý Miễu ngày nay chúng ta không
biết một tí gì hết.
Ông "kiểm soát toàn bộ" những tư
liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc, cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, cũng không tìm thấy những người có các cái tên ấy.
Ông lục tìm trong Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Ngụy thư,
Bắc sử, Nam sử và Tư trị thông giám sử cũng như Đại Việt sử lược,
Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu
án và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục cũng
không gặp một "sứ quân" (hoặc chức vụ tương đương) nào với cái tên Lý
Miễu; lục tìm trong Cao tăng truyện và Tục
cao tăng truyện cũng
như Thiền Uyển tập anh, cũng không tìm thấy một pháp sư nào có tên Đạo Cao hay Pháp Minh. Chỉ duy
nhất trong Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-2
có liệt ra tên một Thích Đạo Cao, nhưng kiểm tra bản mục lục của văn liệu này cũng như xuất xứ của tên ấy dẫn từ Cao tăng truyện 5
tờ 255b15-17 thì thấy là Thích Đạo Tung chứ không phải Đạo Cao, sự khác nhau đó
là do Toàn Tấn văn khắc nhầm.
Ông mở rộng việc
truy tìm sang các tài liệu Nhật Bản và Triều Tiên. Trong khi khảo sát toàn bộ tài liệu liên quan của Nhật, ông đọc kỹ lại Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục (là sách được Vũ Điền thiên hoàng cho viết nhằm ghi lại tất cả
những bộ sách Trung Quốc còn
sót lại trong Thư viện hoàng gia sau
vụ cháy năm 887), tìm thấy một dữ kiện lôi cuốn.
Dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra một bộ sách nhan
đề "Tá âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn" và dưới mục Biệt tập lại ghi "Đạo Cao pháp sư tập,
một quyển". Vấn đề là
Đạo Cao tác giả của hai cuốn
sách Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập này
có phải là Đạo Cao pháp sư trong
6 lá thư hay không? Đối chiếu thì
thấy hai tác phẩm này chắc chắn không phải do người Nhật biên soạn mà phải là từ Trung Quốc mang về, vì khảo sát toàn thể tài liệu Phật giáo Nhật Bản ông không thấy tăng
sĩ Nhật Bản nào mang tên Đạo
Cao cả. Vấn đề là họ mang về
Nhật từ lúc nào. Một cuộc kiểm soát tiếp
vẫn không cho biết một tí gì
cả, chỉ biết chắc chắn là nó
phải được mang về trước năm 887 để có thể ghi vào bản
thư mục nói trên. Ông cũng kiểm
soát những bản thư tịch liệt kê những tư liệu liên quan tàng trữ ở các nước Anh, Pháp,
Liên Xô, cũng không tìm thấy gì
hết.
Tuy nhiên, ở đây xuất hiện một vấn đề mới. Trước hết về cuốn Tá
âm. Nó được liệt vào loại Tiểu học gia, mà căn cứ vào định nghĩa của Tùy
thư kinh tịch chí, nó là loại sách ngôn ngữ.
Cần nói thêm, một chú giải trong tài liệu Nhật Bản còn
ghi "Kinh tịch chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không
ghi họ tên người viết".Ghi chú này đã được xác nhận từ tài liệu Trung
Quốc và từ dẫn giải của
các tài liệu Trung Quốc cũng như Nhật Bản, có thể coi Tá âm tự là
một tác phẩm khác nữa của
Thích Đạo Cao. Như vậy là ít nhất Thích
Đạo Cao cũng có 3 tác phẩm được
nhắc đến. Vấn đề đặt ra là
tại sao những tác phẩm đó
được Nhật Bản đem về từ Trung Quốc mà Trung Quốc lại không ghi một cách đàng
hoàng trong các tài liệu chính thống của mình, mà chỉ ghi một
cách sơ sài khuyết danh trong Tùy thư? Tiếp tục nghiên
cứu và đối chiếu,
ông xác định rằng sở dĩ như
vậy là vì những sách đó chắc chắn không
phải tiếng Trung Quốc mà là
tiếng nước ngoài.
Những khảo sát như vậy dẫn đến kết luận, Đạo Cao chắc chắn không phải là người Trung Quốc, Nhật
Bản hay Triều Tiên,
trong khi người mang tên đó là một trong hai tác
giả các bức thư trao đổi với
Lý Miễu, "sứ quân" Giao Châu. Bởi vậy Đạo Cao chắc chắn là người Việt Nam.
Và từ nhân vật này, ông phát hiện một chứng cứ quan trọng khác về một cột mốc
phát triển ngôn ngữ dân
tộc: Tá âm là một quyển sách ngữ
học về quốc âm, còn Tá âm tự là một
cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm đó. Rất tiếc là chúng đã thất lạc,
nhưng chắc chắn là có những
cuốn sách đó. Ông bảo trong sưu tập Stein tàng trữ tại Bảo tàng viện Anh Quốc có một thủ bản mang ký hiệu S.5731, mô tả một tài
liệu giống như vậy, nhưng vì ông "chưa có trong
tay" thủ bản đó nên chưa
thể khẳng định.
Chúng tôi dẫn chứng dài
dòng đoạn trên, tuy rất sơ lược,
để bạn đọc phần nào thấy được cách làm việc cẩn
trọng của giáo sư Lê Mạnh Thát. Những khảo sát như vậy đã
được tiến hành và dễ dàng tìm ra tông
tích Việt Nam của người
thứ hai là Pháp Minh.
Đối với nhân vật
Lý Miễu, nội dung 6 lá thư cho thấy Lý Miễu được gọi là
"sứ quân" và lời lẽ của nhị vị pháp sư trong
6 lá thư coi ông "ở địa vị của
một bậc thiên tử". Đối chiếu danh
sách những chức danh tương đương với "sứ quân" như "thái
thú", "thứ sử" Trung Quốc cử
sang thì không thấy tên Lý Miễu. Toàn bộ sử
sách Trung Quốc cũng
như Việt Nam đều không
có tên Lý Miễu. Với một khảo sát văn liệu tương tự cùng những phân tích chính
trị, xã hội đến tận ngọn
nguồn, ông kết luận Lý Miễu
chính là một vị vua của Việt Nam.
Một nhân vật xưng vương xưng đế trên một đất nước độc
lập mà Trung Quốc không
với tới thì sử sách Trung Quốc không
chép là không có gì lạ. Còn việc sử ta không chép cũng là đương nhiên, vì không không có sử liệu. Ông ước đoán 6 lá thư đó được viết vào những
năm 435-440, nằm trong thời kỳ Nam Bắc triều (420-588) của Trung Quốc. Niên đại của Lý Miễu nằm trong khoảng 390-470, của Đạo Cao khoảng
365-455 và Pháp Minh khoảng
370-460. 6 lá thư chứa đựng những sử liệu vô cùng quý
giá cho việc nghiên cứu nghệ
thuật, âm nhạc, văn học, Phật
giáo, chính trị và tư tưởng (bạn
đọc quan tâm vấn đề này xin đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 427-582).
Xin tạm dừng loạt bài này ở đây. Thiền sư Lê Mạnh Thát đã thực hiện một loạt các công trình nghiên
cứu đồ sộ về lịch sử dân
tộc và lịch sử Phật giáo, về văn
học, triết học...
Riêng các công trình lịch sử văn học của
ông được tập hợp thành Tổng tập văn
học Phật giáo
khoảng 50 tập (đã in 3 tập). Chúng tôi giới thiệu sơ
lược một số trong rất nhiều phát hiện lịch sử của thiền sư với mong muốn những người quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến. Đối với
các cơ quan quản lý ngành lịch sử và những nhà sử học - những
người đang nghiên cứu lịch sử, chúng
tôi thiết nghĩ nó
có lợi chứ hoàn toàn không
gây thiệt hại gì cho
việc nghiên cứu, vì nghiên cứu thì cần có những tài liệu mới do chính mình hoặc do người
khác phát hiện ra. Các cơ quan nghiên
cứu lịch sử hoặc
các nhà sử học có thể xem xét, đánh giá, tranh
biện, cái gì có tài liệu chứng minh là không đúng thì nói là
không đúng, cái gì cần tiếp tục làm
rõ thì cùng nhau tìm tòi làm
rõ, nhưng cái gì thấy có cơ sở là đúng rồi thì cần thừa nhận để đưa vào dòng chính thống. Tất cả đều nhằm mục đích tìm ra sự thật để tôn vinh dân tộc chúng ta. Mỗi một di sản của tổ
tiên đều phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất
của tổ tiên đều phải
được gìn giữ.
Theo Hoàng
Hải Vân - TNO
Chủ trang blog đã tổng hợp 6 kỳ còn lại trên báo Thanh Niên vào trang nầy cho tiện theo dõi. Đăng lại từ địa chỉ:
https://thuvienhoasen.org/a29941/thien-su-le-manh-that-va-nhung-phat-hien-lich-su-chan-dong
Các lý thuyết mới
về lịch sử Việt Nam
của Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Một số phát hiện:
1. Ông tuyên bố đã phát hiện ra Lục độ
tập kinh, một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới đã lưu truyền 2000 năm,
tập kinh đó là của Việt Nam, tập kinh được
dịch ra chữ Hán từ một
bản tiếng Việt chứ
không phải từ bản tiếng Phạn.
2. Cho rằng truyền thuyết trăm trứng có khởi nguồn từ Lục độ
tập kinh, trước kia chỉ biết có truyền thuyết trăm trứng là hồn thiêng dân
tộc, nhưng khởi nguồn thì không biết từ đâu.
3. Ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh
bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong
Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản
của câu chuyện Mahabharata (Mahàbhàrata)
từ Ấn Độ truyền vào Việt
Nam thời Hùng Vương mà
thôi.
4. Ông cho rằng không có chuyện Triệu Đà đánh
An Dương Vương ("vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!") và nhà Thục cũng
không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau công nguyên),
trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, Văn Lang vẫn là một
nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương được xây dựng trên một
nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số,
có âm nhạc, có văn học,... Nhà nước và văn hiến đó hoàn toàn
không do người Trung Quốc đến
"khai hóa" mà có. Nhà nước Hùng Vương có đủ bản lĩnh, sức mạnh để
tiếp thu tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang, đóng góp vào
nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một
trong những dẫn chứng sống động. Ông dẫn chứng, sau khi Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương", Hậu Hán
thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng
Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc".
Ông lập luận rằng, như vậy rõ ràng nước Việt đã có luật pháp, bộ luật đó một
chính quyền Hai Bà Trưng ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một
nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời.
Các đề nghị sửa
lại lịch sử
1. Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương
Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra
khỏi lịch sử nước ta.
Lý do, trước đây ta viện dẫn từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao
châu ngoại vực ký, Quảng
Châu ký, Nam Việt chí và Nhật
Nam truyện, trong đó 3 tài liệu không rõ nguồn gốc. Trong khi
đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc
là Sử ký Tư Mã Thiên và Tiền Hán thư, hoàn toàn không thấy có chuyện
Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những
thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta
làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một
nước độc lập. Vậy, nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên
Trung Quốc.
2. Nước ta từ thời Hùng Vương vẫn là một
nước độc lập kéo dài cho
đến năm 43, nghĩa là giai đoạn Bắc thuộc lần
thứ nhất không tồn tại.
Lý giải về
những "sai sót" chép sử trước đây
Ông cho rằng trước đây đã
dùng những sử liệu không đáng tin cậy để viết sử rồi cứ đinh ninh như vậy cho
tới nay. Từ Đại Việt sử
lược trở đi, theo giáo sư Lê
Mạnh Thát, là do "những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên
cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho
rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải
dùng "những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thư như những tài liệu
cơ bản cho việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống
Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn".
Tuy nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội
lần" so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn trên đây, bởi vì ngay
cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, "nó
cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm".
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia