Nhánh hoa mù u nở trắng
Bướm vàng thôi đậu nhành xưa
Không gian im lìm trầm lặng
Quê nhà sớm nắng chiều mưa
Từ thuở em xa vườn cũ
Nha Mân mấy độ sang mùa.
Ngô
Chí Trung
Những
ngày sau thời kỳ giãn cách làn sóng Covid-19 lần thứ IV
17-10-2021
Ngô Chí Trung, cựu học sinh Trường Trung học Kỹ Thuật Vĩnh Long (nay là Trường Đại học Sư phạm Kỹ Thuật Vĩnh Long).
Nhánh hoa mù u nở trắng
Bướm vàng thôi đậu nhành xưa
Không gian im lìm trầm lặng
Quê nhà sớm nắng chiều mưa
Từ thuở em xa vườn cũ
Nha Mân mấy độ sang mùa.
Ngô
Chí Trung
Những
ngày sau thời kỳ giãn cách làn sóng Covid-19 lần thứ IV
17-10-2021
Sớm lành lạnh heo
may
Mùa thu về thảng
thốt
Lá treo nhành ủ
dột
Gió khẽ khàng ru
êm.
Con đường rộng dài
thêm
Rào chắn ngang
thảng thốt
Chốt chặn bày đột
ngột
Vắng bước chân học
trò.
Trường im lìm buồn
xo
Bảng trở mình
thảng thốt
Con chữ mờ mai một
Bàn ghế nằm ngẩn
ngơ.
Trong veo mắt trẻ thơ
Qua khẩu trang
thảng thốt
Thấy trời xanh mồn
một
Hy vọng hồng ước
mơ.
Ngô
Chí Trung
Những
ngày kéo dài thêm thời gian giãn cách làn sóng Covid-19 lần thứ IV
11-9-2021
Ảnh minh họa
Sớm
mai thon thót giật mình
Còi
xe cấp cứu hú inh ỏi đường
Nhìn
ra đầu ngõ mờ sương
Cảm
ơn! Thêm một ngày thương yêu đời.
Trưa
chang chang nắng xanh trời
Bỗng
thon thót sấm, mây bời bời mưa
Nghe
dày vò những mùa xưa
Vầng
trăng cổ tích đã thừa phôi pha.
Ta
nhìn đời, đời nhìn ta
Ta
nhìn ta thấy thân sa sút hình
Ngẫm
con cô-vít giật mình
Nhân
gian thon thót tim thình thịch run.
Chiều
buông mây xám mịt mùng
Tiếng
chim bìm bịp vọng ngun ngút sầu
Cánh
cò bay lả về đâu?
Liu
riu nước quyện chân cầu miên man.
Hoàng
hôn lặng lẽ giăng màn
Vạc
sành điểm nhịp song loan não nề
Đêm
chìm hun hút lê thê
Chập
chờn nửa tỉnh nửa mê, mỏi mòn.
Canh
khuya ngọn gió thổi lòn
Thạch
sùng tặc lưỡi giật thon thót mình
Ngẫm
thời cô-vít mà kinh
Tháng
dài ngày rộng thêm sình sịch lo.
Kéo
dài giãn cách…
Nằm
co!
Ngô
Chí Trung
Những
ngày kéo dài thêm thời gian giãn cách làn sóng Covid-19 lần thứ IV
05-9-2021
Ảnh minh họa
Theo đó, Đồng Tháp tiếp tục áp dụng biện
pháp giãn cách xã hội theo tinh thần Chỉ thị số 16 trên phạm vi toàn tỉnh đến
hết ngày 15-9.
Trong ngày 4-9, Đồng Tháp ghi nhận thêm
120 ca dương tính nâng tổng số ca dương tính trên địa bàn là 7.394 ca.
Kiếp người chao
đảo mong manh
Cô-vi cô-vít hoành
hành tứ tung
Cách ly…, rào chắn
bịt bùng
Ở đâu yên đó tập
trung trong nhà.
Ngồi buồn thơ thẩn
ê a
Đôi câu lục bát
gần xa cáo tồn(*)
Còi xe cấp cứu
điếng hồn
Ép không (F0) bùng
phát dập dồn mà ghê!
Thương người cơ
nhỡ xa quê
Trong cơn bĩ vận bộn bề nỗi lo
Trẻ già chật vật
nằm co
Phận mưu sinh biết
lần mò về đâu?
Miếng cơm manh áo
dãi dầu
Tấm thân gầy xác
xơ nhầu nhĩ rêm
Cách ly…, rồi lại
siết thêm
Thắt lưng buộc
bụng ắt mềm môi ra…
Cách ly… Đành phải
nằm nhà
(Ra gặp cô-vít khéo
là tiêu diêu…)
Đêm dài giãn cách
quạnh hiu
Thời gian chậm lại
bao điều lạ quen.
Đường khuya vàng
vọt ánh đèn
Hiên ngoài rả rích
dế mèn ru đêm
Ngô
Chí Trung
Những
ngày giãn cách làn sóng Covid-19 lần thứ IV
03-9-2021
(*)Cáo tồn: khóc thương người chưa chết, (ngược lại với cáo phó).
Thức
khuya mới biết đêm dài(*)
Xa
quê mới thấu những ngày cách ly
Cái
thời cô-vít cô-vi
Giọt
buồn thấm đẫm người đi, đoạn trường…!
Giọt
chờ trĩu nặng cố hương
Giọt
thương giọt nhớ mù phương nẻo về
Giọt
xa giọt xót bộn bề
Giọt
dài giọt vắn sơn khê ngút ngàn.
Giọt
trông giọt đợi miên man
Giọt
xao giọt xuyến dâng tràn mênh mông
Giọt
thơ hòa giọt rượu nồng
Nghe
rưng rức giọt lệ lòng đắng cay.
Nghe
đêm buông tiếng thở dài
Nghe
sương thổn thức giọt ngoài hiên rơi
Nghe
xa ngọn gió ru hời
Nghe
gần giọng kể ỉ ôi thầm thì.
Gặp
thời cô-vít cô-vi
Phố
hoang vắng phố người ly cách người
Thắt
lưng buộc bụng gượng cười
Đêm
dài giãn cách thêm rười rượi thương.
Cúi
đầu bái vọng mười phương
Xua tan đại dịch cho thường dân yên.
Ngô
Chí Trung
Những
ngày giãn cách làn sóng Covid-19 lần thứ IV
16-8-2021
(*) Ca dao
Ước gì trái đất
đừng quay
Để tôi mãi của
tháng ngày xa xăm
Thuở em trăng đã
qua rằm
Môi non mơn mởn duyên
ăm ắp cười.
Má hồng dậy mộng
xuân tươi
Mắt huyền lúng
liếng tuổi mười sáu xinh
Hồn tôi trong vắt
thủy tinh
Ngửa nghiêng khúc
lục bát tình đong đưa.
Bao giờ trở lại
ngày xưa
Tôi về nhặt bóng
em vừa bỏ quên
Chạm vào nỗi nhớ
không tên
Bần thần cúi xuống
cầm lên bóng mình.
Phai tàn giấc mộng
phù sinh
Bồng bềnh sương
khói thoảng hình bóng tan
Ngày em nắn phím
cung đàn
So dây thả giọt
cầm hoan vỡ òa.
Bến nào neo đậu
thuyền hoa
Sông nào hứng ánh
trăng tà rụng rơi
Lắng lòng kỷ niệm
đầy vơi
Sáo qua sông khuất
góc trời phù vân.
Từ em rời chốn Nha
Mân
Chút duyên tri ngộ
chỉ ngần ấy thôi.
Ngô Chí Trung
24-7-2021
LĐO | 28/06/2020 | 18:30
Ngai thờ 3 vị vua Hùng ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ.
Năm
2018(*), loạt bài viết “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn
động” của nhà báo Hoàng Hải Vân đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và nhận được
nhiều ý kiến đóng góp, phản hồi, phản biện xung quanh những vấn đề liên quan
đến các kết luận của thiền sư về lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, có thể do chưa có
đầy đủ tư liệu, thiền sư Lê Mạnh Thát đã chưa đi sâu vào phân tích và nghiên cứu
một chủ điểm quan trọng, đó là lịch sử dân tộc thời kỳ Hùng Vương.
Thời đại Hùng Vương trong lịch sử dân tộc
Việt có tồn tại hay không và tồn tại như thế nào? Đây là một câu hỏi của không
ít con dân người Việt ngày nay còn đang loay hoay trước sự đa dạng và khó phân
định của các lập luận từ nguồn tư liệu sử học khi nhìn về nguồn cội.
1. Từ lòng yêu mến đối với lịch sử nước
nhà, tôi có may mắn được gặp sư thầy Tâm Hiệp trên hành trình tìm về nguồn cội
của thầy. Thầy Tâm Hiệp là một người từ bé đã xuất gia theo Phật nhưng lại có
tình yêu đặc biệt với văn hóa Việt. Thầy cho rằng, văn hóa của người Việt là
nền văn hóa được xây dựng từ lòng biết ơn và niềm thương kính với nguồn cội. Từ
đó, xếp gọn y vàng, thầy rong ruổi trên khắp các nẻo đường của vùng đồng bằng
Bắc Bộ và ở quê hương Quảng Trị để nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này. Bên cạnh
trang kinh là những tập tư liệu Hán Nôm thầy tìm được từ những ngày điền dã
khắp các vùng quê trong dân gian.
Gần đây, cùng với nhóm nghiên cứu di sản
văn hóa đền miếu Việt, thầy Tâm Hiệp đã cho ra mắt cuốn sách: Hùng Vương Thánh
Tổ ngọc phả sưu khảo. Đây là bản sưu tầm, dịch và phiên chú đầy đủ tư liệu phả
ký lưu giữ tại Hùng Vương miếu ở thôn Vân Luông, xã Vân Phú, Việt Trì, Phú Thọ.
Cuốn sách đã được Nhà xuất bản Dân Trí xuất bản đúng vào dịp giỗ tổ 10.3 năm
2020.
Mỗi lần về với đền Hùng vào ngày giỗ tổ,
tôi luôn tự hỏi, đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh hiện thờ ai? Khi nói chuyện với
các hướng dẫn viên ở đây, tôi được biết ở cả 3 khu đền Thượng, đền Hạ và đền
Trung trong quần thể di tích đều đặt 3 ngai vị là:
- Đột ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập
bát thế Thánh vương
- Ất Sơn Thánh vương
- Viễn Sơn Thánh vương
Người hướng dẫn ở đền Hùng giải thích với
tôi rằng, đây là ba vị thần núi, tương ứng 3 ba chòm núi Nghĩa Lĩnh, núi Trọc
và núi Vặn ở vùng Việt Trì. Tuy nhiên, điều này không khỏi làm tôi hoang mang.
Chẳng nhẽ quốc tổ vua Hùng nước ta lại là 3 vị thần núi? Tôi đem băn khoăn này
chia sẻ với sư thầy Tâm Hiệp và xin mạo muội ghi lại những ý chính được sư thầy
giải đáp dưới đây.
Sư thầy Tâm Hiệp cho hay, đền Hùng nằm ở
thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, còn lưu giữ được bản Hùng Vương ngọc phả soạn vào
năm Hồng Đức nguyên niên (1470) bởi Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố. Cuốn
ngọc phả này kể lại sự tích các vị vua Hùng từ đầu cho tới khi Triệu Đà diệt An
Dương Vương lập nước Nam Việt. Tuy nhiên, trong cuốn ngọc phả của Hy Cương lại
không hề đề cập đến các tên gọi Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn và Viễn Sơn. Đây là lý
do làm cho các nhà nghiên cứu cho rằng, 3 ngai vị ở đền Hùng là 3 vị thần núi
địa phương. Từ đó, cả ban quản lý Đền Hùng và những người dân cũng chỉ biết
chung chung như vậy.
Trang đầu của cuốn Nam Việt Hùng Vương
Ngọc phả vĩnh truyền miêu duệ tôn điệt ức vạn niên hương hỏa tự điển tôn sùng.
Nhưng nay, với phát hiện bản Hùng Vương
Thánh tổ ngọc phả lưu tại đền Vân Luông, sự việc về 3 vị vua Hùng được thờ trở
nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Phần thứ nhất trong bản ngọc phả có tên Nam Việt
Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền tự điển, trong đó ghi chép đầy đủ các tên gọi,
ngày sinh, thời gian trị vì của các đời vua Hùng. Theo cuốn điển thờ này, Đột
Ngột Cao Sơn là mỹ tự truy phong (tên thờ) của Hùng Quốc Vương - người con trưởng
trong trăm người con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tương tự, Viễn Sơn là
thụy hiệu của Hùng Hy Vương và Ất Sơn là thụy hiệu của Hùng Hi Vương, 2 vị vua
Hùng kế tiếp Hùng Quốc Vương.
Như thế, đền Hùng ở Phú Thọ thực chất là
thờ 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời đại Hùng Vương, là những vị vua Hùng được
ghi chép trong điển thờ quốc gia (ngọc phả). Không thể có chuyện quốc tổ người
Việt lại là 3 vị thần núi.
2. Ngọc phả Hùng Vương bàn rằng: “Xưa Tiền
Hoàng đế Thánh tổ Cõi lớn trời Nam, Hùng Vương Sơn Nguyên, đã gây dựng cơ đồ,
thủy tổ Việt Nam, mở nước Cổ Việt Hùng Thị, mười tám đời thánh vương ngự trị
Cõi lớn trời Nam, mở mang hùng đồ nước Việt, nước biếc một dòng, bắt đầu vận
vua sáng đế thánh. Núi xanh vạn dặm, lập nền đô thành điện báu, mở vật giúp
người, thống trị mười lăm bộ, giữ thế mạnh trước phiên thần, nối tiếp phát huy
cõi đất lớn thành Viêm Hồng, do vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi giúp cho dòng
giống vững như bàn đá. Hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế
vương ngự ở Việt thành, muôn năm thánh điện núi Hùng, đất tổ trời Nam, gốc nước
cơ đồ, vạn xuân tôn kính, ngàn xưa chảy mãi”.
Đối với những người “ngoại đạo” như tôi,
thời đại Hùng Vương luôn là một điều bí ẩn đến khó hiểu. Ví như, tại sao 18 đời
vua Hùng lại kéo dài hơn 2.600 năm? Tuổi thọ trung bình mỗi đời vua Hùng vậy có
quá lạ không?
Khúc mắc này cũng được sư thầy Tâm Hiệp
giải đáp bằng những thông tin từ bản ngọc phả Hùng Vương mới phát hiện. Theo
đúng nguyên bản của Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền tự điển, 18 đời
Hùng Vương không phải là 18 vị vua. Mỗi một đời Hùng Vương là một triều đại kéo
dài. Mỗi triều đại mang cùng một tên hiệu có thể có 1 hoặc nhiều vị vua. Ngọc
phả gọi là 18 chi như sau:
Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên
hạ
1.Kinh Dương Vương - chi Càn
2.Hùng Hiền Vương - chi Khảm
3.Hùng Quốc Vương - chi Cấn
4.Hùng Hy Vương - chi Chấn (**)
5.Hùng Hi Vương - chi Tốn (***)
6.Hùng Diệp Vương - chi Ly
7.Hùng Huy Vương - chi Khôn
8.Hùng Ninh Vương - chi Đoài
9.Hùng Chiêu Vương - chi Giáp
10.Hùng Uy Vương - chi Ất
11.Hùng Trinh Vương - chi Bính
12.Hùng Võ Vương - chi Đinh
13.Hùng Việt Vương - chi Mậu
14.Hùng Định Vương - chi Kỷ
15.Hùng Triều Vương - chi Canh
16.Hùng Tạo Vương - chi Tân
17.Hùng Nghị Vương - chi Nhâm
18.Hùng Duệ Vương - chi Quý
Ngọc phả Hùng Vương ghi rõ: “Từ đầu tính
nước họ Hùng 18 nhánh truyền ấn phù quốc gia, 180 đời đế vương lên ngôi, nhất
thống núi sông, xe sách trị nước, kiến dựng 120 điện thành. Cộng các năm trị
vì, 18 đời thánh vương di truyền, thánh tử thần tôn, triều đại đế vương, hưởng
ngôi cộng là 2.655 năm, thọ 8.618 năm, sinh 986 chi hoàng tôn công chúa, sinh
cháu chắt cộng là 14.370 người, trị ở nước Nam, đầu núi góc biển, vạn thế
trường tồn, mãi mãi không ngừng”.
Như vậy, thời đại Hùng Vương có tới 180 vị
đế vương, kéo dài 2.655 năm. Tính ra trung bình mỗi vị vua Hùng trị vì khoảng
15 năm, thọ khoảng 48 tuổi. Đây là những con số hoàn toàn rất thực tế.
Còn nhiều điều nữa được ẩn chứa qua từng
trang ngọc phả.
3. Nhiều người, trong đó có cả những học
giả và nhà nghiên cứu cho rằng, ngọc phả là hoang đường. Sở dĩ có sự đánh giá
như vật là do bởi chính chúng ta đọc tự điển của cha ông với một thái độ thờ ơ,
nghi ngờ. Chúng ta chưa có một thái độ đúng đắn để đi sâu tìm hiểu di sản của
tổ tiên để lại có ý nghĩa gì; không muốn biết thông điệp của cha ông gửi gắm
qua từng trang sách quý. Như những trang ngọc phả, bao đời nay vẫn được các thế
hệ ông cha truyền dạy phải lưu giữ trân trọng và đó chính là cuốn ngọc phả được
thờ như một quốc bảo linh thiêng của dân tộc.
Ngọc phả chính là “chìa khóa” về nguồn
cội, là cuốn Thiên thư giúp phân định được không gian, thời gian và con người
Việt ở thời xa xưa nhất. Đây là một báu vật đúng như nó được ghi:
“Cho nên quốc triều mới tiến hành soạn
sách Nam Thiên bảo lục, để mãi ban cho hậu thế, con cháu dòng dõi lưu truyền
muôn đời. Chỉ truyền cho người hiền, không truyền cho người thiếu phép tắc. Sự
tích này không thể đem cho người ngoài”.
Xin thành tâm thắp một nén hương dâng lên
Cửu trùng thiên điện ở núi Hùng, đọc lại những dòng ngọc phả về thời kỳ dựng
nước, ngâm lên câu đối trên chính điện đền Trung:
Thiên thư định phận, chính thống triệu
Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy
miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Nghĩa là:
Sách trời định phân, chính thống dựng Minh
đô, núi sông Bách Việt duy có tổ
Núi
tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.
MINH
THI
Tải về từ địa chỉ:
https://laodong.vn/lao-dong-cuoi-tuan/sang-to-goc-tich-cac-vua-hung-qua-ngoc-pha-hung-vuong-815202.ldo?fbclid=IwAR04U3YYDffXW3lNsgRe8JrSjy3d_NbYjfqzSi-3kAaiIevM-Ww7oH4B61c
(*)Chú thích: Năm 2008 (không phải năm 2018 như ở phần đầu bài ghi), loạt bài viết “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” của nhà báo Hoàng Hải Vân đăng trên báo Thanh Niên 7 kỳ (kỳ đầu tiên đăng ngày 26-02-2008), đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và nhận được nhiều ý kiến đóng góp, phản hồi, phản biện cùa các học giả, nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, được đăng công khai trên báo chí chính thống xung quanh các kết luận của Thiền sư Thích Trí Siêu (tức Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát) về lịch sử Việt Nam. Mời đọc loạt bài viết của nhà báo Hoàng Hải Vân và các ý kiến đóng góp, phản biện ở trang tiếp theo.
(**) Có tư liệu ghi là Hùng Nghi Vương.
(***) Có tư liệu ghi là Hùng Hy Vương (không thấy có Hùng Hi Vương).
Chú thích của Ngô Chí Trung.
Báo Thanh Niên
23:17
- 26/02/2008
Với những khám phá của
ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai
ngàn năm trước... Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí
Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá tò mò về
chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông vì sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức
ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi còn thua ông ấy một bộ
râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười của ông.
Tôi đã gặp ông nhiều lần, trước hết là để viết bài về Đại lễ
Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam sắp tới mà ông là Chủ
tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng thư ký Ủy ban điều phối quốc gia
Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với trình độ nông cạn
của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của vị cao tăng này
thật không dễ chút nào.
Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà khoa học có nhiều bằng
tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn
Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông còn là một
người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân
tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học
của ông.
Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi lại một vài điều tâm đắc sau
khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rõ những khám phá của ông về cội
nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước nhà hàng ngàn năm bị che lấp
hoặc bị hiểu sai lệch.
"Ông Lê Quý Đôn
mà cũng lôi thôi quá !"
Xin chép ở
đây hai bài thơ chữ Hán, theo tôi bài nào cũng hay đến "lạnh cả
người":
Nhị
bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Tạm dịch
nghĩa: Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấm
Dưới
khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang chuyền
Thật
đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với mùa xuân
Ngưng
đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói)
Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép
trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần
(1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt
tác thi ca chữ Hán của Việt
Một bài
khác:
Nhạn quá
trường không
Ảnh trầm
hàn thủy
Nhạn vô
di tích chi ý
Thủy vô
lưu ảnh chi tâm
(Tạm dịch
nghĩa: Chim nhạn bay dài qua không trung
Ảnh chìm
dưới dòng sông lạnh
Nhạn
không có ý để lại dấu tích
Sông
không có lòng lưu lại bóng hình)
Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn
tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong
công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu
Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả
thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng
không chỉ có vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của
thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền
sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã
chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các
thiền sư Trung Quốc. Ông đã chỉ rõ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào,
tờ số mấy. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói
với tôi. Là ông nói đùa thôi, chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn
trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức
không có dịp đọc các bộ chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê
Quý Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương
Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh
Châu Hương Hải, vì chúng đã được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã
không tiến hành kiểm tra, tìm hiểu và so sánh", ông viết.
Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong rất nhiều công trình
sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối chiếu, xác minh và giới
thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt
Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đã cẩn trọng "trả lại cho
người khác" những gì không phải của thiền sư, dù đó là những viên ngọc quý
(như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng làm tương tự. Ông
bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học kiểu đó không những không làm
vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó khiến cho người ta nghi ngờ
chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử nước ta, đặc biệt khi
các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này.
Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên
cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông còn có một lợi thế
tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đã đọc hết những bộ
kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh
chữ Hán, ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà
chẳng hạn như đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc
bộ sử thiền tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền
Quang và Hương Hải ông đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn.
Lịch sử dân tộc bảo
tồn trong kinh Phật
Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của
Phật giáo thế giới. Tập kinh này được dịch ra chữ Hán vào thế kỷ thứ 2, truyền
bản của nó đến ngày nay gồm 8 quyển, 91 truyện, trình bày sáu hạnh vượt bờ của
Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các vị
cao tăng đông tây kim cổ đều biết đến tập kinh này và từ lâu nó đã được dịch ra
tiếng Pháp và tiếng Nhật.
Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm lưu truyền của Lục Độ
tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ tập
kinh này. Ông khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ Hán
từ một bản tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội, người
dịch bản kinh đó, người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh
hiền", là một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo
đạo Phật, hành đạo và trước tác đều tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về
lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đã truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa
nhất có liên quan, tiến hành khảo sát, đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt
những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa
đựng "một lượng bất bình thường" các tư tưởng, quan điểm và đạo lý
mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt
Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập kinh chứa đựng
truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm trứng. Điều này hết
sức có ý nghĩa, là vì truyền thuyết đó được ghi vào sử sách bắt đầu từ bộ Đại
Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại thì thấy chuyện này
được chép trong Lĩnh
Trong khi phát hiện truyền thuyết trăm trứng nằm trong Lục
Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn khám phá một sự thật lịch sử thú vị
liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm trứng nằm trong
truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một dị bản bằng
tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như câu chuyện
về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em Pandu và
Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư Mã Thiên
và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền thuyết An
Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi
bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng
qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt
Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng định
không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì có An Dương
Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam Việt
của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa là, cho đến năm
43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất
bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương, là nhà nước
Hùng Vương. Nhà nước đó đã được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương
riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học...
Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến "khai
hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những gì là tinh
hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi trội để đóng
góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là
một trong những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ
tài liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước... (còn
tiếp) H.H.V
Lời Tòa Soạn: Trong lúc dân Việt từ khắp nơi
trong nước đến ngoài nước liên tiếp đứng
lên bảo vệ đất nước khỏi bị xâm lăng
từ giặc Tầu phương Bắc, chúng tôi tìm
đọc lại Sử Việt thì biết rằng cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc
kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại nhưng thực sự chưa bao giờ ngưng nghỉ. Các thời kỳ đất nước bị các thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ không mất hạnh",
nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân
tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương
vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân tộc Việt một lần nữa đang tiếp diễn…Kính mời quý độc giả xem trang tiếp theo:
(tiếp theo)
Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nếu nói các truyền
thuyết An Dương Vương là không có thật thì phải giải đáp như thế nào về Loa thành? Nếu nói nước
ta đến năm 43 vẫn là nước độc lập thì
các "thái thú" Tích Quang, Nhâm Diên sang "cai trị" ở đâu?
Tất cả những kết
luận của giáo sư Lê Mạnh Thát đều được đưa ra kèm theo sự so sánh đối chiếu hết sức cẩn thận,
kèm theo là các tài liệu dẫn chứng cụ thể có
thể tra cứu đến tận gốc. Rất
tiếc giới hạn của một bài báo
không cho phép chúng tôi dẫn ra đây, vì nó quá nhiều. Về vấn đề chúng tôi đang
đề cập, có thể xem: Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta - Lê Mạnh
Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006.
Làm trong sạch những trang sử của tổ tiên bờ cõi
Như chúng
tôi đã đề cập, giáo sư Lê Mạnh Thát đề nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của
Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta.
Cần biết, toàn bộ cơ sở để dựng
lên thời kỳ An Dương Vương và Triệu
Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ Đại Việt
sử lược, rồi Đại Việt sử ký
toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục... cho đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vức ký, Quảng Châu
ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài
liệu không rõ nguồn gốc và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại
khái là vào thế kỷ thứ VI, thứ VII), riêng Nam Việt chí thì có
nguồn gốc niên đại rõ ràng (thế kỷ thứ
V), nhưng tất cả đều mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng
tin cậy. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là
Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán
thơ, chúng ta hoàn
toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó
còn có những thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một
nước độc lập. Nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà
bên Trung Quốc là điều đã rõ. Vấn đề là xác định đất đai Nam Việt của Triệu Đà
đến đâu? Kết luận là: Nước Nam Việt
không bao giờ lan ra khỏi địa phận tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Hồ
Việc dùng những tài liệu không đáng
tin cậy để ghi vào sử sách nước nhà, rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát,
là do "những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân
nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho rằng,
để viết lịch sử nước ta vào những thế
kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng
"những báo cáo của Sử ký và Tiền
Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho
việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ
Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn" (như trường hợp về Nhâm Diên, Tích Quang nói dưới đây
và nhiều trường hợp tương tự khác). Tuy
nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp
bội lần" so với những thứ như 4 tài liệu đã
dẫn, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn
gốc rõ ràng như Nam Việt chí, nó
cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu
trăm năm (sách đã dẫn).
Với những sử liệu đã dẫn, vấn đề An Dương Vương đã rõ là một phiên
bản Việt Nam trong bản anh hùng ca Mahãbhãrata, thế thì xử lý như thế nào
về quan hệ giữa An Dương Vương với thành Cổ loa? Giáo sư Lê Mạnh Thát viết:
"Để trả lời câu hỏi đó, trước hết
cần có một ý niệm tổng quát về quá
trình hình thành quan hệ giữa các kỳ quan tự nhiên
hay nhân tạo với các nhân vật kỳ
vĩ, cụ thể là chuyện con trâu vàng
của Không Lộ với Hồ tây. Không Lộ là vị thiền
sư mất năm 1119, thế mà lại có một kết nối việc hình thành Hồ tây
trong truyền thuyết dân gian như Lĩnh
Như vậy, các triều đại An Dương Vương và Triệu Đà đã được các
sử gia Việt Nam từ Lê Văn Hưu đến Ngô
Sỹ Liên dựng lên từ những tài liệu không đáng tin cậy, kiểm chứng tới đâu thấy sai tới đó.
Nay với những sử liệu tin cậy có thể
kiểm chứng được đến tận gốc mà giáo sư Lê Mạnh Thát đã chỉ ra, chúng ta có đủ cơ sở loại chúng ra khỏi lịch sử, để làm trong
sạch tổ tiên bờ cõi chúng ta. Một người thì tiêu
diệt vua Hùng (An Dương Vương), một người thì chiếm nước ta (Triệu
Đà), khi đã có đủ chứng cứ là không đúng sự thật,
thì vinh dự gì mà vẫn để tồn tại trong những trang sử của dân tộc?
Nhưng khi khẳng định nước ta là
nước độc lập cho
đến năm Mã Viện đánh bại cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng,
thì giải quyết như thế nào đối với các
nhân vật như Tích Quang, Nhâm Diên được coi là các "thái thú" Trung Quốc cai trị nước ta trước đó? Hai nhân vật
này được sử sách Trung Quốc cho là
những người đến "khai hóa" dân tộc ta, bằng những lời lẽ vô cùng xấc xược, coi dân tộc ta là
"mọi", là "cầm thú", là "sâu bọ chồn cáo" (lời
trong Hậu Hán thơ). Bằng những sử liệu khó chối
cãi, giáo sư Lê Mạnh Thát chứng minh Tích
Quang, Nhâm Diên chưa bao giờ làm thái
thú ở nước ta cả, đó chỉ là sự "hư cấu lố bịch khôi
hài". Lấy thí dụ như Nhâm Diên,
Hậu Hán thơ viết ông này được cử làm thái thú Cửu Chân (nước ta) vào năm Kiến
vũ thứ nhất (năm 25 sau dương lịch), nhưng thời điểm đó cũng theo Hậu Hán
thơ, tình hình chính trị Trung Quốc từ sông Dương Tử về phía nam cực
kỳ phức tạp, các tướng mỗi nơi chiếm một
phương, thiên hạ loạn lạc đến nỗi "vua tự đem quân thân chinh
mà còn bị cản đường, xe ngựa không tiến lên
được", thì làm sao Nhâm Diên đến được Cửu Chân để làm thái thú ? Vả lại,
chứng cứ đanh thép nhất mà sử gia Lê
Mạnh Thát tiếp tục dẫn ra là, sau khi
Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương", Hậu Hán
thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10
việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc". Như vậy rõ ràng nước ta đã có luật pháp. Bộ luật đó một chính quyền ngắn ngủi không
làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc
lập tồn tại từ lâu đời. Nếu nói nước ta lúc đó chỉ là quận, huyện
của Trung Quốc, do các thái thú của Trung Quốc sang cai trị, thì chỗ đâu để có bộ Việt
luật cho Mã Viện điều tấu? Mà nếu có Việt luật, nghĩa là có một nhà nước độc lập, thì Tích Quang, Nhâm Diên "cai trị"
ở đâu?
Lê Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó là
việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương...
Tiếp tục hành trình về thời đại Hùng Vương
Cho đến nay, với nhiều nỗ lực nghiên cứu,
các nhà sử học nước ta đã phát hiện rất nhiều tài
liệu quan trọng về nền văn minh của
nước ta thời đại Hùng Vương, đặc biệt là đã thu thập, giám định, phân tích một khối lượng đồ sộ các di chỉ
khảo cổ học từ văn hóa Phùng
Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn
hóa Đông Sơn. Những nỗ lực đó cho phép phác
thảo bước đầu diện mạo của thời đại khởi nguồn của dân tộc, đủ để bác bỏ những mưu đồ phủ nhận hoặc hạ thấp công lao dựng nước của tổ tiên. Ghi nhớ lời dặn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh "Các vua
Hùng có công dựng nước...", Nhà nước ta đã chính
thức quyết định lấy ngày Giỗ tổ
Hùng Vương làm Quốc Giỗ.
"Sau ngày độc lập, cụ Hồ Chí Minh rất chính xác khi lấy tên Hùng Vương đặt cho con đường chính giữa thủ đô, ngang qua Hội trường
Ba Đình, đó là điều hết sức có ý
nghĩa", giáo sư Lê Mạnh Thát nói với chúng
tôi. Ông lưu ý rằng, không
phải ngẫu nhiên mà trong khi Ngọc phả
nhà Lý mất, Ngọc phả nhà Trần mất, Ngọc phả nhà Lê cũng mất thì Ngọc phả Hùng
Vương lại được lưu giữ, hiện còn 3 truyền bản, 2 truyền bản có từ thời Tiền Lê
(Lê Đại Hành) và 1 có từ thời Lê Thánh Tôn. "Lê Đại
Hành dựng lại Ngọc phả Hùng Vương giữa lúc chuẩn bị đánh Tống. Đánh
Tống là cuộc kháng chiến chống một cường quốc chứ không phải chống đội quân lèo
tèo như Nam Hán. Lê Thánh Tôn nói: Một
tấc đất của tổ tiên cũng không để
mất! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng
Vương". Ông nói tiếp: "Giữa lúc người Mỹ tuyên bố đưa Việt
Nam trở về thời kỳ đồ đá thì Việt
Nam lại có một cuộc khảo sát lớn nhất về thời đại Hùng Vương do chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo. Giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã thực
hiện 4 tập sách về thời đại Hùng
Vương. Đó là một cuộc nghiên cứu nghiêm
túc nhất từ trước tới nay. Lần đầu tiên chúng ta có
một cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng Vương với quy mô lớn, do Nhà nước
chủ trương, chứ không phải là nghiên cứu lẻ tẻ. Chúng ta thu
được những thành quả quan trọng về
khảo cổ học và tập hợp được một số tài liệu chữ
Hán giai đoạn đầu. Điều đó rất có ý nghĩa và
cần được tiến hành tiếp tục".
Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề quan trọng về lịch sử của thời đại này
vẫn đang bị bỏ ngỏ hoặc bế tắc, trong đó có vấn đề chữ viết, luật pháp cùng
những vấn đề căn
bản khác của một nhà nước mà chắc chắn là
nó phải có trong thời đại Hùng Vương.
Bởi vậy, những khám phá của giáo sư Lê
Mạnh Thát có ý nghĩa vô cùng.
Sau khi đưa ra các minh chứng để đề
nghị loại bỏ hai triều đại An Dương Vương và Triệu Đà ra
khỏi lịch sử và xác định thời đại Hùng Vương tồn
tại cho đến năm 43, giáo sư Lê
Mạnh Thát tiếp tục phát hiện thêm
những tài liệu quan trọng có thể khai
thông những bế tắc từ bấy lâu nay.
Việc tồn
tại của Việt luật (mà Mã Viện "điều tấu"), theo giáo sư
Lê Mạnh Thát, cho phép chúng ta giả thiết rằng
tiếng nước ta vào thời điểm đó (thời Hai Bà Trưng) đã phát triển đến một mức
độ chính xác nhất
định và có một hệ thống chữ viết đủ rõ ràng để
ghi chép các quy định của luật pháp.
Vấn đề là Việt luật hiện nay không còn,
điều đó không có gì là lạ, vì chính Hán luật cũng không còn. Chúng ta cũng chưa tìm được chữ viết trong các di chỉ khảo cổ học. Điều đó
cũng không có gì lạ và chưa tìm được không có nghĩa là nó không có, bởi ngay
đến chữ viết thời Lý - Trần mà vẫn
không tìm được trên các di chỉ khảo cổ học khai quật tại Hà Nội, trừ bia Lý
Thường Kiệt và vài tấm bia ít ỏi khác tìm được ở rất xa ngoài Thăng Long.
"Lịch sử Lý - Trần rực rỡ như vậy mà không còn một tấm bia nào ở thủ đô hết,
chúng (nhà Minh) nhất định không để
lại một vết tích nào của lịch sử. Đến nỗi,
ông Hoàng Xuân Hãn phải đề nghị một hướng mới là tìm nó dưới nước, tức là khảo sát dưới hồ Tây", thiền sư Lê Mạnh Thát bức xúc. Nói thế để
thấy kẻ thù thâm độc như thế nào trong
mưu đồ triệt hạ văn hóa của dân tộc ta, triệt hạ tận gốc để dân ta không biết gốc tích
của mình.
Truy lại chữ
viết của tổ tiên vì vậy mà trở nên thiên nan vạn nan. Nhưng không phải không có cách. Giáo sư Lê
Mạnh Thát nói đầu thế kỷ trước, người Pháp đã khai quật một ngôi mộ cổ ở Bắc
Ninh, phát hiện một thứ chữ viết trên
gốm, "giống chữ Hán nhưng người Hán không đọc được", nghĩa là một
thứ chữ viết theo kiểu Hán nhưng không
phải chữ Hán, đó rất có thể là chữ Việt.
Theo ông, chúng
ta hiện có hai nguồn tư liệu cơ
bản: Nguồn thứ nhất là Lục độ tập kinh cùng
các dịch phẩm khác của Khương Tăng Hội là
Cựu tập thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú
giải và Tạp thí dụ kinh do
một tác giả vô
danh thực hiện. Ông đã khảo cứu một
cách công phu tường tận ngữ âm tiếng
Việt còn lưu giữ trong những tập kinh này. Chẳng hạn, để diễn tả ý niệm "trong
lòng", Lục độ tập kinh có hai
dạng cấu trúc. Dạng thứ nhất tập trung ở quyển 7 có 7 trường hợp dùng "tâm trung" (cấu trúc
ngữ âm tiếng Trung Quốc), dạng thứ hai có
8 trường hợp rải đều trên 6 quyển dùng
từ "trung tâm" (cấu trúc ngữ âm tiếng Việt). Khảo sát tiếp Kinh Thi do Khổng Tử san
định, trong 305 bài thì có 15 bài dùng "trung tâm". Sau Kinh Thi là Lễ ký do ảnh hưởng của Kinh
Thi có 4 lần sử dụng "trung
tâm". Và trong 300 năm đầu sau dương lịch, dạng "trung tâm"
hầu như không được các học giả Trung Quốc dùng
tới, nếu có vài trường hợp thì đều là
ở dạng trích từ Kinh Thi hoặc nhái
theo Kinh Thi mà thôi. Thế mà Lục độ tập kinh, với 91 truyện, có 8 lần sử dụng cấu trúc đó, tỷ lệ gần 1/10, cao hơn nhiều so với Kinh Thi (15/305). Trong 7 lần sử dụng dạng "tâm trung", có khả
năng ban đầu cũng dùng dạng
"trung tâm", sau bị điều chỉnh lại,
là do nó chỉ tập trung trong quyển 7, là quyển chủ yếu trình bày về
thiền, chắc chắn do nhu cầu tìm hiểu về thiền nên nó được lưu hành rộng rãi qua
nhiều tay người đọc Trung Quốc và quá
trình đó đã được nhuận sắc cho đến khi
được khắc bản vào năm 927, trong khi cấu trúc dạng "trung tâm" tiếp tục tồn tại trong
các quyển kia của Lục độ kinh.
Trong Lục độ kinh còn có một số cấu
trúc ngữ âm tương tự, ví dụ như cấu trúc
"thần thọ" có nghĩa là "thần cây" chứ không phải "cây
thần" như tiếng Trung Quốc...
"Bộ Việt luật còn
đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà
cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ
Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói !" (Thiền sư Lê
Mạnh Thát).
Thiền sư nổi giận
Ngoài việc phát hiện việc Lục độ tập kinh chữ Hán "không chấp
hành" nguyên tắc ngữ âm tiếng Trung Quốc như trường hợp cấu trúc "trung tâm", trong
khi dịch tập kinh này ra tiếng Việt hiện nay, giáo sư Lê Mạnh Thát còn phát
hiện các trường hợp Khương Tăng Hội dùng "tá âm" hoặc
dùng thuần túy tiếng Việt, chỉ phiên
âm ra nó lập tức biến thành những câu tiếng Việt dễ hiểu. Ông lưu ý do Khương Tăng Hội "sinh ra, lớn lên và đào tạo thành tài ở nước ta" cho nên
khi phiên dịch và trước tác dứt khoát không thể nào không chịu ảnh hưởng của tiếng Việt trên cả ba mặt ngữ vựng,
ngữ pháp và cú pháp, song Khương Tăng Hội lại là người sử dụng tiếng Trung
Quốc tới mức "nhuần nhuyễn của một diệu thủ" thì lẽ ra
những ảnh hưởng đó phải bị hạn chế tối đa, thế thì tại sao Lục độ tập kinh tồn
tại nặng nề và sâu đậm đến vậy những "tàn dư" của ngữ
vựng, ngữ pháp và cú pháp tiếng Việt ?
Chỉ có thể giải thích là tập kinh đó
đã được dịch ra chữ Hán bằng một nguyên bản tiếng Việt.
Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát:
"Khi đối chiếu cấu trúc "trung
tâm" trong Lục độ tập kinh chữ
Hán với ngôn ngữ của Trung Quốc, thầy viết rằng, "kiểm soát toàn bộ văn liệu" tiếng Trung Quốc (do người Trung Quốc viết) từ đầu thế kỷ thứ I sau dương
lịch trở về sau cho đến thế kỷ thứ III, trong khoảng thời gian 300
năm, cấu trúc "trung tâm" chỉ được dùng đúng 3
lần, trong khi cấu trúc này được dùng phổ biến trong Lục độ tập kinh. Nói như vậy có nghĩa là
để đối chiếu chỉ hai chữ "trung
tâm", thầy đã phải đọc hết tất cả của Trung
Quốc trong 3 thế kỷ?". Ông bảo: "Đúng vậy. Không đọc hết
thì làm sao mà khảo sát, đối chiếu được!". Liên quan đến tiếng Việt trong Lục độ tập kinh, ông còn chỉ ra một nguồn tài liệu quan trọng thứ hai. Đó là sách Thuyết
Uyển của Lưu Hướng, tồn tại từ
năm 16 trước dương lịch mà "không có nhà nho nào là không biết". Đây
là bộ sách duy nhất chép lại nguyên
văn một tác phẩm văn học khác với tiếng Trung Quốc, đó là bài Việt ca. Thuyết
Uyển không phải là một cuốn sách thường, nó là cuốn sách được viết để
"dâng vua", cho nên tài liệu được
nó sử dụng phải là những tài liệu được kiểm chứng, trong đó có tài liệu lấy từ "Trung thư", tức là một
loại thư viện của hoàng gia. Điểm hết sức thú vị của
bài Việt ca chép trong Thuyết Uyển là nó
"ghi bằng chữ Hán mà người Hán không đọc được", phải "dịch ra
tiếng Sở", tức là kèm theo một bản dịch tiếng Trung Quốc. Dù Lưu Hướng nói rõ đó là bài ca "do
người Việt ôm mái chèo mà ca", nhưng hơn hai ngàn năm nay chưa một
ai nghiên cứu giải mã bài ca này,
ngoài sự cố gắng tìm hiểu của Quách Mạt Nhược (từng là Chủ tịch
Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc) cho rằng bài ca này là của người Choang
vùng Quảng Tây Trung Quốc ngày nay, và
một học giả người Nhật cho bài ca đó
là của... Chiêm Thành. Giáo sư Lê Mạnh Thát đã dành nhiều thời gian, thông qua nhiều tài liệu để giải mã và bước đầu phục chế diện mạo tiếng Việt của bài Việt
ca này (xem Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta, chương IV, sđd, và Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM, trang 41-47).
Như đã nói, mỗi lần tràn sang là mỗi lần
kẻ xâm lược hủy diệt một cách tàn độc
tất cả những gì có thể để cho văn hóa được lưu truyền, đặc biệt là
việc tận diệt bia đá một cách có hệ thống sau
khi "thu gom" hết sách vở, nhưng với những gì còn lưu lại của bốn
ngàn năm văn hiến và những nỗ lực mới nhất của những nhà khoa học đầy tâm
huyết và trách nhiệm với tổ tiên như Lê Mạnh Thát, chúng ta có cơ sở để khẳng định chắc chắn là chúng
ta đã có chữ viết từ thuở
các vua Hùng. Kẻ xâm lược quyết không
cho người Việt biết đến "mặt chữ" của tổ
tiên, nhưng dấu tích nó vẫn còn
đó: trong kinh Phật, trong chính sách vở của Trung
Quốc và còn lẩn khuất ở đâu đó nữa.
Cùng với việc khảo sát trong lòng đất và "dưới nước" như hướng mà
giáo sư Hoàng Xuân Hãn đề nghị, hướng nghiên cứu của
giáo sư Lê Mạnh Thát rất cần được sự đồng hành, phối hợp của nhiều nhà sử học khác.
Tôi
hỏi ông: "Thầy nghĩ gì về ý kiến cho rằng có thể tìm vết
tích chữ viết thời
Hùng Vương trên mặt trống đồng?". Ông nói: "Có giả thiết như
vậy, nhưng khảo sát những hoa văn trên trống đồng chúng ta không thấy chúng có liên quan đến chữ viết, vì chữ viết phải
có quy luật về
cấu trúc của nó. Suy
đoán từ những giả định không có cơ sở sẽ khó có sức
thuyết phục". Việc nghiên
cứu ngôn
ngữ cổ, nhất là ngữ âm cổ rất phức tạp. Chẳng hạn người Trung Quốc cũng
như người Việt 2.000 năm trước phát âm như thế nào ngày nay chúng ta không
biết được, để nghiên
cứu nó giáo sư Lê Mạnh Thát đã phải dùng hệ phát âm tiếng Trung Quốc thời
Hán của Karlgren, là công cụ mà các nhà Hán học đều thống nhất, rồi đối chiếu với
những tài liệu đánh dấu sự biến đổi ngôn ngữ để
truy lùi về thời điểm nghiên
cứu, và cũng bằng phương pháp tương tự, ông đối chiếu những mối liên hệ giữa
tiếng Trung Quốc,
tiếng Việt và các loại ngôn ngữ khác trong
vùng (chữ Phạn, Chăm, Khmer, tiếng nói các dân tộc Trung Quốc giáp
giới với Việt Nam...)
để phác thảo diện mạo tiếng Việt của bài Việt
ca, bác bỏ kết luận sai trái của
Quách Mạt Nhược và học
giả người Nhật nói trên... (bạn
đọc muốn tìm
hiểu sâu hơn, xin xem
các sách đã dẫn).
Tiếp theo và cùng với chữ viết là lịch pháp. Lâu nay chưa ai biết dân
tộc ta thời đại Hùng Vương sắp xếp
ngày tháng như thế nào. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng đoán: "Văn hóa Trống
đồng của nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-30 ngày cũng không hẳn là vô lý"
(Lịch và lịch Việt Nam,
Tập san Khoa học xã hội,
Paris, 1982, trích từ Lê Mạnh Thát, Lịch
sử Phật giáo Việt Nam tập
1, NXB Tổng hợp TP.HCM 2006, trang 71). Nay những phát hiện trong Lục độ tập kinh cho
phép khẳng định được lời đoán của giáo sư Hoàng Xuân Hãn.
Những câu chuyện ghi trong tập kinh
này cho thấy, nước ta thời Hùng Vương đã dùng hệ thống lịch chia năm ra 360 ngày,
phân bổ thành 4 mùa, mỗi mùa có 3 tháng và đã dùng đơn vị tuần, mỗi tuần 7 ngày. Đối chiếu với những tài
liệu cổ Trung Quốc thì
thấy hệ thống lịch nước ta khác với
lịch Trung Quốc cùng thời, vì
lịch Trung Quốc thời đó mỗi năm 366
ngày và một đơn vị tuần của họ có tới
10 ngày. Nó cũng không giống Ấn Độ, vì tuần
của Ấn Độ thời đó có 15 ngày.
Phát hiện này cho phép kết luận nước ta thời Hùng Vương đã có
lịch pháp riêng của một nhà nước độc lập.
Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, để bảo lưu được một hệ thống lịch pháp như thế, các câu chuyện trong Lục độ tập kinh chắc chắn phải được lưu truyền "vào thời hệ thống lịch đó còn hiệu lực", tức
là từ năm 43 trở về trước,
bởi vì sau năm đó nhà Hán đã chiếm nước ta, một sự bảo lưu như thế dứt khoát không thể nào xảy ra dưới bộ
máy đàn áp của Mã Viện...
Những kết
luận của giáo sư Lê Mạnh Thát có thể và cần được các nhà
sử học tiếp tục bổ sung,
nhưng không có gì thái quá khi
nói rằng với phát hiện đó trên nền tảng những thành
quả quan trọng trong cuộc nghiên
cứu lớn về thời Hùng Vương trong thời gian chống Mỹ, chúng ta có thể và phải dựng lại lịch sử thời đại Hùng
Vương với những sự thật của
nó. Nó một lần nữa chứng minh việc Nhà nước ta lấy ngày giỗ
tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ là vô cùng đúng đắn.
Là nhà tu
hành nhưng thiền sư Lê
Mạnh Thát đã không kìm nén tức giận khi thấy người ta "thóa mạ làm
nhục tổ tiên mình với kiểu ăn
nói của Ngô Sỹ Liên: Nước ta hiểu thi, thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến,
bắt đầu từ Sỹ Vương. Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt
ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn
nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ
nói!". Sự nổi giận của
vị thiền sư này rất cần được
sự hưởng ứng của tất cả những ai còn coi mình là con cháu Lạc Hồng...
Không có cái gọi là thời kỳ "Bắc thuộc lần thứ
nhất". Việc lập 9 quận, trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thuộc
Hán chỉ là sự "đoạt khống" đất đai nhằm thỏa
mãn não trạng và ao ước bành
trướng của nhà Hán mà thôi.
Nhà Hán "đoạt khống" đất đai
nước ta
- Nếu nước ta thời Hùng Vương vẫn là một
nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai đoạn “Bắc
thuộc lần thứ nhất” không tồn tại? - Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát.
- Đúng vậy. Phải loại phần đó ra khỏi lịch sử. Chúng
ta có đủ chứng cứ để
làm như vậy.
- Nhưng sử sách vẫn còn ghi: năm
214 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng đem quân đánh lấy đất
Bách Việt, sau đó chia làm ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận mà Tượng
Quận là nước ta?
- Nam Hải, Quế Lâm ngày nay nằm trong
hai tỉnh Quảng Đông và Quý Châu Trung Quốc thì đã rõ rồi, nhưng Tượng Quận thì
không phải. Một số tài liệu Trung
Quốc có chép một cách lầm lạc rằng
nó là Nhật Nam (nước ta) sau này, nhưng đối
chiếu với những tài liệu tin cậy cũng
của chính Trung Quốc, từ rất sớm người ta đã biết Tượng
Quận nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ
không phải nước ta.
- Sử Trung
Quốc cũng ghi rõ, năm 111 trước
công nguyên, Hán Vũ đế đã
chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà và đặt 9 quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm,
Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai và Đàm Nhĩ thuộc Hán.
Nếu cho đến năm 43 nước ta
vẫn độc lập thì giải thích làm sao việc nước ta gồm ba
quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
- Đối chiếu với chính
sử Trung Quốc ta
đã thấy Triệu Đà chưa bao giờ chiếm Tây Âu lạc cả và Hán Vũ đế cũng
chỉ chiếm
Dù là Âu Lạc, Tây Âu, Tây Âu Lạc, Tây
Vu, Việt Thường Thị hay Giao Chỉ - Cửu Chân - Nhật
Trao đổi với chúng tôi,
giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng chỉ riêng văn minh trống
đồng thôi mà chúng ta đã có
chứng cứ rành rành. Với một nền
khoa học kỹ thuật phát triển rất cao thời đó như vậy, một nền kỹ thuật không ai
có thể chối cãi, thì không có lý gì
mà chúng ta lại không có một
nền văn hóa - giáo dục tương
ứng.
Nền văn hóa đó
vẫn được bảo tồn. Trung Quốc có Thi Thơ Lễ Nhạc. "Nếu
nói Thi chúng ta có cùng chùm truyện trong Lục độ tập kinh,
Cựu tạp thí dụ kinh và bài Việt ca. Nếu nói Thơ chúng ta có truyền thuyết trăm
trứng. Nếu nói Lễ chúng ta có bộ Việt luật. Nếu nói Nhạc ta không
chỉ có bài Việt ca mà còn có trống đồng...". Nói thêm về văn học, ông cho rằng "nền văn học thành văn của dân tộc ta không
phải bắt đầu từ Trần Nhân Tông và
Nguyễn Trãi, hay Khuông Việt và
Từ Đạo Hạnh... mà nó đã bắt đầu từ
thời Hùng Vương mà bằng chứng còn lại là bài Việt ca, cụm chuyện thần thoại và cổ tích đầu tiên tìm thấy trong Lục độ tập kinh.
Phân tích trong Lục độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ ra 5 truyện
trong tập kinh này tương đương với 5 truyện cổ tích do
Nguyễn Đổng Chi tập hợp trong Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, như
vậy "chúng ta không còn bàn cãi một
cách tùy tiện không có cơ sở về nền văn học "dân
gian" chung chung phi thời gian,
phi lịch sử".
Như vậy là từ thời Hùng Vương chúng ta đã có một nền văn hóa riêng, tạo nên bản lĩnh dân tộc.
Đó là nền tảng cho những cuộc đấu tranh trường kỳ,
khốc liệt bảo vệ đất
nước, bảo vệ nòi giống. Dân
tộc ta không những không bị đồng hóa,
mà nền văn hóa của dân tộc ta
còn được du nhập vào văn hóa Trung
Quốc mà Lục độ tập kinh - không chỉ là kinh Phật mà còn
là tác phẩm của "bậc
thánh hiền" như chính người Trung Quốc gọi
- là một trong những ví dụ.
Nhưng không chỉ có vậy. Theo giáo sư Lê
Mạnh Thát, từ sau khi Mã Viện đánh bại Hai Bà Trưng cho đến khi Chu Phù, Sỹ Nhiếp cai trị
nước ta, lịch sử cũng có
nhiều vấn đề cần đặt lại. Và
trong thời gian này xuất hiện một nhân vật lớn là Mâu Tử, một người Việt Nam, với tác
phẩm nổi tiếng Lý hoặc Luận được lưu truyền trong nền văn hóa điển chương Trung Quốc, một bằng chứng hùng hồn về sự nổi
trội của văn hóa Việt Nam
"Giả như người nước ta không ghi
lại những sự việc của Lê Hoàn (hoàng đế Đại Hành) và chúng
ta phải nghiên cứu qua
tư liệu của người Trung Quốc, thì
một đoán án đương nhiên phải
xảy ra, đó là Lê Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xã tắc gì
hết, ngược lại chỉ là một tiết độ sứ,
một quan chức của nhà Tống" (thiền sư Lê Mạnh Thát).
Sỹ Nhiếp là ai?
Có thể có ai đó trong giới sử học
"ý kiến ra ý kiến vào"
về những phát hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng
tôi đang giới thiệu một
phần hết sức tóm lược. Mong
rằng những người quan tâm có
thể tìm đọc các công trình của
ông để trao đổi học thuật. Chúng
tôi xin lưu ý,
những gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư Lê Mạnh Thát
đã công bố từ cách đây trên
dưới 40 năm, nay được in lại trong hai bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam(tập 1)
và Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), đều do
NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi
nguyên của dân tộc ta mà chúng tôi đã
dẫn. Trong những công trình này,
mỗi một vấn đề đưa ra ông đều
dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những ngôn ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể,
chỉ rõ số trang, số tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi
ngờ thì có thể tra tận gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và
chữ Trung Quốc hiện nay, cùng
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ...
Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như
trên để nói rằng những sử liệu từ Trung Quốc là
"không hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính sử Trung
Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những người đó chỉ được
"phong khống" chứ chưa bao giờ bước
chân qua nước ta. Việc nghiên cứu lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi đối chiếu với chính sử Trung
Quốc để thẩm định,
xác minh tìm ra sự thật. Cho nên, mỗi một cuộc truy tìm, mỗi
một phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến cho lịch sử nước nhà trở nên sáng rõ.
Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ
giặc Tàu" như lời bài hát của
Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính
xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng
chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng
nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất đã nổ ra
vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu
Liên lập khu tự do vào năm
138, làm hậu phương cho các
cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời
Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong
hơn 150 năm bị các thái thú Trung Quốc đến
đô hộ, chúng ta "mất
nước chứ không mất hạnh", nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương vẫn
được bảo tồn và phát triển.
Sự quật cường của dân tộc
chính người Trung Quốc cũng
phải thừa nhận: "Trưởng
lại đặt ra, tuy có cũng như không".
Có một nhân vật lạ lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp.
Cả sử Trung Quốc và sử ta đều
nói ông là thái thú Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái
thú" đến cai trị, nhưng các sử gia Việt
Phần trước chúng
tôi có nêu sự "nổi giận" của giáo sư Lê Mạnh
Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc
thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương", cần nói rõ
là ông bất bình với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc mới thành
ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như Trần Trọng
Kim viết: "Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là
khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải" (Việt
Đưa ra nhiều tài liệu dẫn
chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187),
cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ Chu Phù "vứt
điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ
Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô
chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ
tiên vốn người Mấn
Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời".
Ông cho rằng một người có tổ tiên 6
đời ở Việt Nam thì đã
"Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ
phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về
chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường
vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ
thuộc đều được nhờ
ân"; "Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu,
riêng ở vạn lý, uy tôn vô
thượng. Ra vào đánh
chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ
theo sát đốt hương, thường
có mấy mươi. Thê
thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng,
chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh
Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu được đào tạo trong
khuôn mẫu Trung Quốc, đã có
những hành vi xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa.
Việc Ngô chí so sánh Sỹ Nhiếp
với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà
Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ Nhiếp,
nước ta đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ
mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh
Dương dĩ nam dị vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ
Nhật
Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết
(226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên
nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một
nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ
Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn
Quyền, tuy nhiên do
mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ
Huy bị bắt và bị giết, Tôn
Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền
cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh
(Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền.
Về sự kiện Bà
Triệu khởi nghĩa, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là cuộc "khởi nghĩa
thành công". Ông viết: "Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và
thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung
Quốc đối với nước ta. Và cuối
cùng Lục Dận cũng có thể báo
cáo là đã "dẹp yên được giặc Giao Chỉ" và
được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của Giao
Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, vì nó ngó ra biển (lâm
hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ 10b3
đã ghi nhận. Nói cách khác, nước
ta từ năm 248 tiếp tục là một
nước độc lập và Bà
Triệu tiếp tục đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy
chí 4 tờ 27a3 viết là Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho
thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên
Mỗi một di
sản của tổ tiên đều
phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ
tiên đều phải được gìn giữ.
Một minh chứng văn hóa
Những phát hiện nói trên của giáo sư Lê
Mạnh Thát cho phép dựng
lại lịch sử dân tộc
trong thời kỳ nước nhà không
có sử liệu, sử sách được viết chủ yếu căn cứ theo các tài liệu của Trung Quốc. Việc khẳng định chủ quyền của dân
tộc thời trước Hai Bà Trưng, thời Sỹ Nhiếp và sau đó nữa là có cơ sở. Những
phát hiện về văn hóa, bắt đầu
từ Khương Tăng Hội với Lục độ tập kinh và Mâu Tử với Lý
hoặc Luận, đặc biệt là sự kiện 6 lá thư đề cập dưới đây càng
minh chứng cho điều đó.
Lý hoặc Luận của Mâu Tử là
một tác phẩm nổi tiếng, được viết vào cuối thế kỷ thứ II
(198) và được lưu hành tại Trung Quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ V,
có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Nó còn là "sách gối đầu
giường" của người Phật tử Viễn
Đông, cụ thể là Trung Quốc và Nhật Bản. Đến nửa đầu thế kỷ XX, một loạt
những nghiên cứu của
các học giả Trung Quốc, Nhật
Bản và Pháp được công bố về tác phẩm này, gây nên một cuộc tranh biện sôi nổi và hào hứng, bắt đầu
từ công trình của Lương Khải Siêu, tiếp đó là của H.Maspéro,
Tokiwa Daijo, P.Pelliot, Chu Thúc Ca, Hồ Thích, Matsumoto Bunzaro, Dư Gia Tích và
Fukui Kojun (dẫn theo Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập 1).
Ở Việt Nam, nó cũng được coi là
cuốn sách lý luận được quan tâm từ hơn 1.000 năm trước, đặc biệt từ năm 1932 khi Trần Văn Giáp giới
thiệu Mâu Tử là
"người đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Việt Nam", cuốn sách đó
được sự quan tâm rộng rãi của giới học giả và nhiều người dân. Trong
khi nghiên cứu Lục độ tập kinh,
giáo sư Lê Mạnh Thát đã phát hiện những mối liên hệ thú vị và trên cơ sở một cuộc khảo
sát hết sức công phu, ông đã tìm ra bằng chứng khẳng định Mâu Tử là người Việt Nam và Lý hoặc Luận chính
là tác phẩm của Việt Nam truyền sang Trung Quốc. Công
trình nghiên cứu này
của ông đã được công bố một
phần trước năm 1975 và công bố toàn bộ sau này (xem Tổng tập Văn học Phật giáo Việt
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát:
"Trong bối cảnh văn hóa thời Mâu Tử, Lý
hoặc Luận không
phải viết để xiển dương Phật giáo,
mà là một cuộc tổng kết cuộc
đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối
với văn hóa phương Bắc".
Phải có một bề dày văn hóa như
thế nào mới có thể có được một bản lĩnh văn hóa như
vậy. Một bên thì áp đặt Thi Thư như chân lý, Trung Hoa là trung tâm, một bên Mâu Tử đáp trả "Đất Hán chưa
chắc là trung tâm của trời đất", "năm
kinh chưa hẳn là lời của thánh hiền". Tiếp cận tác phẩm của Mâu Tử, chúng ta còn
thấy dân tộc ta đã bảo tồn văn hóa của mình như thế nào, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của Phật giáo, Nho
giáo và Lão giáo để
phát triển nền văn hóa của
mình như thế nào và truyền bá văn hóa của mình ra nước ngoài ra sao.
Sáu lá thư và một vị vua
Một phát hiện cực kỳ quan trọng khác của
giáo sư Lê Mạnh Thát là 6 lá thư nằm trong Đại
tạng kinh chữ
Hán. Đó là 6 lá thư trao đổi giữa
hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh với một "sứ quân"
của Giao Châu tên là Lý Miễu. Trước khi ông công bố 6
lá thư này, chưa có một tài liệu nào
đề cập tới. Từ điểm gây tò mò đầu tiên trong 6 lá thư là địa danh "Giao
Châu", ông đã tiến hành một cuộc truy tìm ngoạn
mục. Trước hết là tìm nguồn gốc Việt
Khó khăn nhất là tìm ra tác giả của
chúng. Ông bảo tung tích của
những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và
Lý Miễu ngày nay chúng ta không
biết một tí gì hết.
Ông "kiểm soát toàn bộ" những tư
liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc, cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, cũng không tìm thấy những người có các cái tên ấy.
Ông lục tìm trong Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Ngụy thư,
Bắc sử, Nam sử và Tư trị thông giám sử cũng như Đại Việt sử lược,
Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu
án và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục cũng
không gặp một "sứ quân" (hoặc chức vụ tương đương) nào với cái tên Lý
Miễu; lục tìm trong Cao tăng truyện và Tục
cao tăng truyện cũng
như Thiền Uyển tập anh, cũng không tìm thấy một pháp sư nào có tên Đạo Cao hay Pháp Minh. Chỉ duy
nhất trong Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-2
có liệt ra tên một Thích Đạo Cao, nhưng kiểm tra bản mục lục của văn liệu này cũng như xuất xứ của tên ấy dẫn từ Cao tăng truyện 5
tờ 255b15-17 thì thấy là Thích Đạo Tung chứ không phải Đạo Cao, sự khác nhau đó
là do Toàn Tấn văn khắc nhầm.
Ông mở rộng việc
truy tìm sang các tài liệu Nhật Bản và Triều Tiên. Trong khi khảo sát toàn bộ tài liệu liên quan của Nhật, ông đọc kỹ lại Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục (là sách được Vũ Điền thiên hoàng cho viết nhằm ghi lại tất cả
những bộ sách Trung Quốc còn
sót lại trong Thư viện hoàng gia sau
vụ cháy năm 887), tìm thấy một dữ kiện lôi cuốn.
Dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra một bộ sách nhan
đề "Tá âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn" và dưới mục Biệt tập lại ghi "Đạo Cao pháp sư tập,
một quyển". Vấn đề là
Đạo Cao tác giả của hai cuốn
sách Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập này
có phải là Đạo Cao pháp sư trong
6 lá thư hay không? Đối chiếu thì
thấy hai tác phẩm này chắc chắn không phải do người Nhật biên soạn mà phải là từ Trung Quốc mang về, vì khảo sát toàn thể tài liệu Phật giáo Nhật Bản ông không thấy tăng
sĩ Nhật Bản nào mang tên Đạo
Cao cả. Vấn đề là họ mang về
Nhật từ lúc nào. Một cuộc kiểm soát tiếp
vẫn không cho biết một tí gì
cả, chỉ biết chắc chắn là nó
phải được mang về trước năm 887 để có thể ghi vào bản
thư mục nói trên. Ông cũng kiểm
soát những bản thư tịch liệt kê những tư liệu liên quan tàng trữ ở các nước Anh, Pháp,
Liên Xô, cũng không tìm thấy gì
hết.
Tuy nhiên, ở đây xuất hiện một vấn đề mới. Trước hết về cuốn Tá
âm. Nó được liệt vào loại Tiểu học gia, mà căn cứ vào định nghĩa của Tùy
thư kinh tịch chí, nó là loại sách ngôn ngữ.
Cần nói thêm, một chú giải trong tài liệu Nhật Bản còn
ghi "Kinh tịch chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không
ghi họ tên người viết".Ghi chú này đã được xác nhận từ tài liệu Trung
Quốc và từ dẫn giải của
các tài liệu Trung Quốc cũng như Nhật Bản, có thể coi Tá âm tự là
một tác phẩm khác nữa của
Thích Đạo Cao. Như vậy là ít nhất Thích
Đạo Cao cũng có 3 tác phẩm được
nhắc đến. Vấn đề đặt ra là
tại sao những tác phẩm đó
được Nhật Bản đem về từ Trung Quốc mà Trung Quốc lại không ghi một cách đàng
hoàng trong các tài liệu chính thống của mình, mà chỉ ghi một
cách sơ sài khuyết danh trong Tùy thư? Tiếp tục nghiên
cứu và đối chiếu,
ông xác định rằng sở dĩ như
vậy là vì những sách đó chắc chắn không
phải tiếng Trung Quốc mà là
tiếng nước ngoài.
Những khảo sát như vậy dẫn đến kết luận, Đạo Cao chắc chắn không phải là người Trung Quốc, Nhật
Bản hay Triều Tiên,
trong khi người mang tên đó là một trong hai tác
giả các bức thư trao đổi với
Lý Miễu, "sứ quân" Giao Châu. Bởi vậy Đạo Cao chắc chắn là người Việt
Chúng tôi dẫn chứng dài
dòng đoạn trên, tuy rất sơ lược,
để bạn đọc phần nào thấy được cách làm việc cẩn
trọng của giáo sư Lê Mạnh Thát. Những khảo sát như vậy đã
được tiến hành và dễ dàng tìm ra tông
tích Việt
Đối với nhân vật
Lý Miễu, nội dung 6 lá thư cho thấy Lý Miễu được gọi là
"sứ quân" và lời lẽ của nhị vị pháp sư trong
6 lá thư coi ông "ở địa vị của
một bậc thiên tử". Đối chiếu danh
sách những chức danh tương đương với "sứ quân" như "thái
thú", "thứ sử" Trung Quốc cử
sang thì không thấy tên Lý Miễu. Toàn bộ sử
sách Trung Quốc cũng
như Việt
Xin tạm dừng loạt bài này ở đây. Thiền sư Lê Mạnh Thát đã thực hiện một loạt các công trình nghiên
cứu đồ sộ về lịch sử dân
tộc và lịch sử Phật giáo, về văn
học, triết học...
Riêng các công trình lịch sử văn học của
ông được tập hợp thành Tổng tập văn
học Phật giáo
khoảng 50 tập (đã in 3 tập). Chúng tôi giới thiệu sơ
lược một số trong rất nhiều phát hiện lịch sử của thiền sư với mong muốn những người quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến. Đối với
các cơ quan quản lý ngành lịch sử và những nhà sử học - những
người đang nghiên cứu lịch sử, chúng
tôi thiết nghĩ nó
có lợi chứ hoàn toàn không
gây thiệt hại gì cho
việc nghiên cứu, vì nghiên cứu thì cần có những tài liệu mới do chính mình hoặc do người
khác phát hiện ra. Các cơ quan nghiên
cứu lịch sử hoặc
các nhà sử học có thể xem xét, đánh giá, tranh
biện, cái gì có tài liệu chứng minh là không đúng thì nói là
không đúng, cái gì cần tiếp tục làm
rõ thì cùng nhau tìm tòi làm
rõ, nhưng cái gì thấy có cơ sở là đúng rồi thì cần thừa nhận để đưa vào dòng chính thống. Tất cả đều nhằm mục đích tìm ra sự thật để tôn vinh dân tộc chúng ta. Mỗi một di sản của tổ
tiên đều phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất
của tổ tiên đều phải
được gìn giữ.
Chủ trang blog đã tổng hợp 6 kỳ còn lại trên báo Thanh Niên vào trang nầy cho tiện theo dõi. Đăng lại từ địa chỉ:
https://thuvienhoasen.org/a29941/thien-su-le-manh-that-va-nhung-phat-hien-lich-su-chan-dong
Các lý thuyết mới
về lịch sử Việt
Một số phát hiện:
1. Ông tuyên bố đã phát hiện ra Lục độ
tập kinh, một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới đã lưu truyền 2000 năm,
tập kinh đó là của Việt Nam, tập kinh được
dịch ra chữ Hán từ một
bản tiếng Việt chứ
không phải từ bản tiếng Phạn.
2. Cho rằng truyền thuyết trăm trứng có khởi nguồn từ Lục độ
tập kinh, trước kia chỉ biết có truyền thuyết trăm trứng là hồn thiêng dân
tộc, nhưng khởi nguồn thì không biết từ đâu.
3. Ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh
bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong
Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản
của câu chuyện Mahabharata (Mahàbhàrata)
từ Ấn Độ truyền vào Việt
Nam thời Hùng Vương mà
thôi.
4. Ông cho rằng không có chuyện Triệu Đà đánh
An Dương Vương ("vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!") và nhà Thục cũng
không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau công nguyên),
trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, Văn Lang vẫn là một
nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương được xây dựng trên một
nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số,
có âm nhạc, có văn học,... Nhà nước và văn hiến đó hoàn toàn
không do người Trung Quốc đến
"khai hóa" mà có. Nhà nước Hùng Vương có đủ bản lĩnh, sức mạnh để
tiếp thu tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang, đóng góp vào
nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một
trong những dẫn chứng sống động. Ông dẫn chứng, sau khi Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương", Hậu Hán
thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng
Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc".
Ông lập luận rằng, như vậy rõ ràng nước Việt đã có luật pháp, bộ luật đó một
chính quyền Hai Bà Trưng ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một
nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời.
Các đề nghị sửa
lại lịch sử
1. Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương
Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra
khỏi lịch sử nước ta.
Lý do, trước đây ta viện dẫn từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao
châu ngoại vực ký, Quảng
Châu ký, Nam Việt chí và Nhật
Nam truyện, trong đó 3 tài liệu không rõ nguồn gốc. Trong khi
đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc
là Sử ký Tư Mã Thiên và Tiền Hán thư, hoàn toàn không thấy có chuyện
Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những
thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta
làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một
nước độc lập. Vậy, nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên
Trung Quốc.
2. Nước ta từ thời Hùng Vương vẫn là một
nước độc lập kéo dài cho
đến năm 43, nghĩa là giai đoạn Bắc thuộc lần
thứ nhất không tồn tại.
Ông cho rằng trước đây đã
dùng những sử liệu không đáng tin cậy để viết sử rồi cứ đinh ninh như vậy cho
tới nay. Từ Đại Việt sử
lược trở đi, theo giáo sư Lê
Mạnh Thát, là do "những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên
cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho
rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải
dùng "những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thư như những tài liệu
cơ bản cho việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống
Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn".
Tuy nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội
lần" so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn trên đây, bởi vì ngay
cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, "nó
cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm".
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia