Báo Thanh Niên
23:17
- 26/02/2008
Với những khám phá của
ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai
ngàn năm trước... Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí
Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá tò mò về
chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông vì sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức
ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi còn thua ông ấy một bộ
râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười của ông.
Tôi đã gặp ông nhiều lần, trước hết là để viết bài về Đại lễ
Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam sắp tới mà ông là Chủ
tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng thư ký Ủy ban điều phối quốc gia
Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với trình độ nông cạn
của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của vị cao tăng này
thật không dễ chút nào.
Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà khoa học có nhiều bằng
tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn
Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông còn là một
người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân
tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học
của ông.
Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi lại một vài điều tâm đắc sau
khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rõ những khám phá của ông về cội
nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước nhà hàng ngàn năm bị che lấp
hoặc bị hiểu sai lệch.
"Ông Lê Quý Đôn
mà cũng lôi thôi quá !"
Xin chép ở
đây hai bài thơ chữ Hán, theo tôi bài nào cũng hay đến "lạnh cả
người":
Nhị
bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Tạm dịch
nghĩa: Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấm
Dưới
khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang chuyền
Thật
đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với mùa xuân
Ngưng
đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói)
Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép
trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần
(1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt
tác thi ca chữ Hán của Việt
Một bài
khác:
Nhạn quá
trường không
Ảnh trầm
hàn thủy
Nhạn vô
di tích chi ý
Thủy vô
lưu ảnh chi tâm
(Tạm dịch
nghĩa: Chim nhạn bay dài qua không trung
Ảnh chìm
dưới dòng sông lạnh
Nhạn
không có ý để lại dấu tích
Sông
không có lòng lưu lại bóng hình)
Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn
tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong
công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu
Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả
thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng
không chỉ có vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của
thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền
sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã
chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các
thiền sư Trung Quốc. Ông đã chỉ rõ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào,
tờ số mấy. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói
với tôi. Là ông nói đùa thôi, chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn
trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức
không có dịp đọc các bộ chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê
Quý Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương
Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh
Châu Hương Hải, vì chúng đã được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã
không tiến hành kiểm tra, tìm hiểu và so sánh", ông viết.
Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong rất nhiều công trình
sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối chiếu, xác minh và giới
thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt
Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đã cẩn trọng "trả lại cho
người khác" những gì không phải của thiền sư, dù đó là những viên ngọc quý
(như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng làm tương tự. Ông
bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học kiểu đó không những không làm
vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó khiến cho người ta nghi ngờ
chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử nước ta, đặc biệt khi
các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này.
Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên
cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông còn có một lợi thế
tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đã đọc hết những bộ
kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh
chữ Hán, ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà
chẳng hạn như đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc
bộ sử thiền tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền
Quang và Hương Hải ông đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn.
Lịch sử dân tộc bảo
tồn trong kinh Phật
Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của
Phật giáo thế giới. Tập kinh này được dịch ra chữ Hán vào thế kỷ thứ 2, truyền
bản của nó đến ngày nay gồm 8 quyển, 91 truyện, trình bày sáu hạnh vượt bờ của
Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các vị
cao tăng đông tây kim cổ đều biết đến tập kinh này và từ lâu nó đã được dịch ra
tiếng Pháp và tiếng Nhật.
Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm lưu truyền của Lục Độ
tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ tập
kinh này. Ông khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ Hán
từ một bản tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội, người
dịch bản kinh đó, người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh
hiền", là một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo
đạo Phật, hành đạo và trước tác đều tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về
lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đã truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa
nhất có liên quan, tiến hành khảo sát, đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt
những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa
đựng "một lượng bất bình thường" các tư tưởng, quan điểm và đạo lý
mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt
Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập kinh chứa đựng
truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm trứng. Điều này hết
sức có ý nghĩa, là vì truyền thuyết đó được ghi vào sử sách bắt đầu từ bộ Đại
Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại thì thấy chuyện này
được chép trong Lĩnh
Trong khi phát hiện truyền thuyết trăm trứng nằm trong Lục
Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn khám phá một sự thật lịch sử thú vị
liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm trứng nằm trong
truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một dị bản bằng
tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như câu chuyện
về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em Pandu và
Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư Mã Thiên
và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền thuyết An
Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi
bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng
qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt
Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng định
không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì có An Dương
Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam Việt
của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa là, cho đến năm
43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất
bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương, là nhà nước
Hùng Vương. Nhà nước đó đã được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương
riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học...
Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến "khai
hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những gì là tinh
hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi trội để đóng
góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là
một trong những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ
tài liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước... (còn
tiếp) H.H.V
Lời Tòa Soạn: Trong lúc dân Việt từ khắp nơi
trong nước đến ngoài nước liên tiếp đứng
lên bảo vệ đất nước khỏi bị xâm lăng
từ giặc Tầu phương Bắc, chúng tôi tìm
đọc lại Sử Việt thì biết rằng cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc
kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại nhưng thực sự chưa bao giờ ngưng nghỉ. Các thời kỳ đất nước bị các thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ không mất hạnh",
nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân
tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương
vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân tộc Việt một lần nữa đang tiếp diễn…Kính mời quý độc giả xem trang tiếp theo:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét