Nói
về tai vạ, người ta thường liên tưởng đến thiên tai, địch hoạ là những rủi ro
xảy đến ngoài ý muốn do thời tiết thiên nhiên, do chiến tranh… Nhưng ở đời cũng
còn một loại hoạ nữa là cái “hoạ văn thơ” đôi khi nó làm cho người viết “lên bờ
xuống ruộng”, thậm chí dẫn đến mất mạng như chơi.
Ở đây
tôi không nói đến những bài viết về chính trị, những bài có ý xuyên tạc, chống
đối chế độ. Bởi vì tôi không thích bàn về
“quốc sự”; hơn nữa, mỗi quốc gia dù theo chế độ nào cũng có luật pháp
bảo vệ thể chế đó. Nếu vi phạm thì sẽ bị luật điều chỉnh, đó là lẽ đương nhiên.
Tôi yêu
thích thơ văn, đọc nhiều văn thơ, thưởng thức, cảm thụ những cảm xúc mà tác giả
chuyển tải. Tuy nhiên, tôi cũng thấy sự cố văn chương – “vạ bút” – xưa nay
không hiếm. Bởi lẽ, một tác phẩm khi người này đọc thì thấy nội dung thuần tuý
cảm xúc đời thường, nhưng với một số người khác thì họ suy diễn rồi quy chụp
lung tung. Và thế là tai vạ… đến nỗi nhà văn Trần Nhã Thuỵ từng nói làm thơ
cũng là một nghề nguy hiểm!
Trong lịch sử có ghi lại bài thơ “giết
người” của Nguyễn Văn Thuyên là con của tiền quân Nguyễn Văn Thành, một trong
những vị khai quốc công thần của vua Gia Long triều Nguyễn. Bài thơ như sau:
(đã dịch qua Hán Việt)
Văn đạo ái châu đa tuấn kiệt
Hư hoài trắc địa dục cầu ti
Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác
Thiện tướng phương chi Ký Bắc kỳ
U cốc hữu hương thiên lý viễn
Cao cương minh phượng cửu cao tri
Thử hồi nhược đắc sơn trung tể
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky
Dịch nghĩa là:
Ái- châu nghe nói lắm người hay
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phác Kinh- Sơn tài sẵn có
Ngựa Kỳ Ký- bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm
Tiếng phượng gò cao suốt chín (tầng) mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay- đổi hội cơ này
Một số người vốn có tị hiềm với ông dựa
vào hai câu thơ cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản
loạn, truất ngôi vua. Mọi việc kêu oan của ông đều không được Gia Long minh
xét. Ông nói với Thống chế Thị Trung lúc bấy giờ là Hoàng Công Lý: “Án đã xong
rồi vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chết, không phải là trung”. Ông buộc phải
uống thuốc độc tự tử trong ngục vào năm Đinh Sửu (1817), hưởng thọ sáu
mươi tuổi. Con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử án chém.
Đó là chuyện của thời phong kiến. Nhưng
thời đại ngày nay cũng còn lắm chuyện trái ngang.
Nhớ một dạo bài thơ “Gửi nắng cho em” của tác giả Bùi
Văn Dung đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng, được Nhạc sĩ Phạm Tuyên phổ nhạc,
danh ca Đài TNVN hát...bài hát đi vào lòng người dâng trào khắp nơi:
Gửi
nắng cho em
Anh ở trong này chưa thấy mùa đông
Nắng vẫn đỏ, mận hồng đào cuối vụ
Trời Sài Gòn xanh cao như quyến rũ
Thật diệu kỳ là mùa đông phương Nam
Muốn gửi ra em một chút nắng vàng
Thương cái rét của thợ cày, thợ cấy
Nên cứ muốn chia nắng đều cho ngoài ấy
Có tình thương tha thiết của trong này
Anh hiểu sức vươn của những cành đào
Qua giá rét vẫn đỏ hoa ngày tết
Như cây thông vững vàng trong giá rét
Em hãy làm cây thông xanh nghe em
Khi hai miền cùng vào một vụ chiêm
Hai vựa thóc cùng nặng tình của đất
Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất
Hơn lúc nào anh hiểu thấu lòng em
Gửi nắng cho em, gửi nắng cho em
Gửi nắng về sưởi ấm những bàn tay
Ông Dung cho hay, ông nhập ngũ năm 1962, làm lính pháo binh, đến năm
1967, làm chính trị viên đại đội thì được vào chiến trường miền Nam chiến đấu
liên tục đến ngày thống nhất đất nước.
“Đó là buổi trưa ngày 17.12.1975, Sài Gòn nắng lắm, nắng rực rỡ.
Chúng tôi bận quần xà lỏn, áo may ô ăn cơm trưa. Ăn xong, ngồi uống nước nghe
bản tin dự báo thời tiết thấy miền trung du Bắc bộ bị ảnh hưởng gió mùa đông
bắc, nhiệt độ xuống tới 5 độ C. Tôi nhớ đến nhà tôi, một nông dân tần tảo. Giờ
này, chắc nhà tôi vẫn còn trên ruộng cấy. Chúng tôi cưới nhau năm 1965, tới năm
1967 thì tôi đi vào Nam
và chưa một lần được về thăm nhà. Tôi bần thần… các câu thơ cứ bật ra dần dần…”
Ông Dung nhớ lại.
Buổi trưa hôm ấy, tôi không ngủ. Đến giờ làm việc, tôi lên nhà ban chỉ
huy, lấy điện thoại điện cho nhà báo Cung Văn (lúc đó làm cho tờ Sài Gòn Giải
Phóng) nói rằng, tôi vừa nghĩ ra một bài thơ mà tôi rất tâm đắc. Cung Văn bảo
tôi đọc qua điện thoại nghe. Nghe xong, Cung Văn bảo tôi đọc lại để Cung Văn
chép. Tôi bảo để tôi chép ra giấy, mai đem qua toà soạn nộp. Cung Văn bảo: “Mai
báo đăng luôn, ông không cần mang bản thảo đến làm gì cho mất thì giờ”.
Bài thơ Gửi nắng cho em được ra đời như thế. Và thượng uý Bùi Văn Dung
cũng quên khuấy đi “đứa con tinh thần” của mình do công việc bộn bề của nhà
binh. Một năm sau, thượng uý Dung ngồi uống cà phê ở bến cảng Nhà Rồng vào một
buổi chiều, bỗng người bạn đập vào vai nhắc khẽ: “Này, bài thơ của mày được phổ
nhạc đang được hát trên loa truyền thanh kia kìa!” Bùi Văn Dung lắng nghe và
vui mừng khôn xiết. “Tôi không ngờ, bài thơ, giờ lại được một nhạc sĩ nổi tiếng
Phạm Tuyên phổ nhạc”, ông Dung kể lại.
Một buổi tối mùa đông năm 1981, bấy giờ ông Dung mang hàm trung tá,
trong một dịp về Hà Nội họp, Bùi Văn Dung đã tìm gặp nhạc sĩ Phạm Tuyên tại một
căn nhà nhỏ tại phường Khương Thượng, quận Thanh Xuân. Đây là cuộc gặp đầu tiên
của tác giả thơ và tác giả nhạc sau năm năm, khi ca khúc được phổ biến. Nhạc sĩ
Phạm Tuyên vui mừng khôn xiết vì ông cứ nghĩ ông Dung phải là nhà thơ có tiếng
trong… Sài Gòn. Rồi ông Tuyên nhìn trung tá Dung thở dài, nói: “Bài hát đã
ngưng phổ biến, Dung có biết lý do gì không?” Ông Dung nói: “Em có nghe vì đã
chạm đến vấn đề chính trị. Khổ quá, em viết thật lòng vì thương vợ em, thương
những thợ cày, thợ cấy vất vả trong mùa đông xứ Bắc”. Ông Tuyên lẳng lặng vào
buồng trong, lục tủ đưa cho Bùi Văn Dung một tập giấy, đó là những lá thư và
đơn yêu cầu đài Tiếng nói Việt Nam ngưng phát bài hát Gửi nắng cho em.
Thời tiết thiên nhiên đất nước mình nó như thế, khi mùa đông, ngoài Bắc
có rét đậm thì Sài Gòn trong Nam
vẫn nắng hồng rực rỡ. Tình cảm chân thành thể hiện lên bài thơ hết sức bình
thường. Vậy mà xảy ra rắc rối với lý do cũng hết sức lãng xẹt: “
… Sài Gòn là nơi hơn 30 năm thực dân mới cai trị, vừa
mới giải phóng lại “gửi nắng” ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa là sao?. “Nắng” là
gì, là ánh sáng. Sao lại để có chuyện ánh sáng được gửi từ nơi đã từng được coi
là vùng tăm tối một thời ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa được”.
Bó tay! Cũng may, sau năm 1983
bài hát và bài thơ đã được phổ biến trở lại.
Ở Phú Yên, nhà thơ Trần Huiền Ân khi
đăng bài thơ Khúc hát ngày về trên báo Phú Yên lại bị “dợt” là
nói xấu quê hương. Sự thật thì bài thơ không có gì là xấu cả, chỉ có một chữ
khiến lãnh đạo “khó hiểu” dẫn đến suy diễn: “Ta trở về bên dòng suối rách/
Vóc nước lên kỳ cọ mặt mày”. “Suối rách” là suối gì? Phải chăng bảo quê
hương là… rách nát? Xin thưa là không phải. Nhà thơ đang tả một con suối mùa
hè, chỗ khô cạn, chỗ loang lổ nhìn như đang bị… rách. Một cách dùng từ khá táo
bạo, nhưng lại gần gũi.
Chưa hết bài thơ Ngọn cỏ tịch điền của Trần Huiền Ân cũng bị suy diễn
là nói về “vùng đất chết” (tịch là chết/ điền là đất) Trong khi đó đây là một
bài thơ đầy cảm xúc, nói về hình ảnh một con trâu già trong buổi cày tịch điền
(ngày xưa, vào ngày xuân vua xuống ruộng cày vài đường để khích lệ lòng dân gọi
là lễ tịch điền). Thế là Trần Huiền Ân được “mời” đến để “trao đổi với tác
giả”.
Viết đến đây tôi chợt nghĩ đọc thơ mà suy diễn kiểu này thì hết biết,
nhưng cũng chẳng trách, bỡi có một giáo
sư văn học hẳn hoi
giải thích câu thơ của
Thôi Hộ (trong sách văn học lớp 11,
nxb Giáo Dục năm 1993): đào hoa y cựu tiếu
đông phong = cánh hoa đào từ năm
ngoái đã khô trên
cành đến nay vẫn còn treo lủng lẳng, cười với gió
đông!? (nguyên văn
bài thơ: Khứ niên kim nhật thử môn
trung/Nhân diện đào
hoa tương ánh hồng/Nhân diện bất tri
hà xứ khứ/Đào hoa y cựu tiếu
đông phong). Chữ xưa, tích xưa mà
giải thích như vậy thì
nay, trách chi có người kêu Lão Tử = chết
già, Tử Lộ = chết
ngoài đường, Tử Cống =
chết dưới cống dưới lù, Trang Tử = người chết thờ trên
trang… cũng không
sai. Hay như câu:
Chiều chiều ra
đứng lầu tây/ Thấy cô
gánh nước tưới cây ngô đồng, rất có
thể sẽ được giải thích rằng:
gánh nước tưới cây ngô đồng = gánh nước tưới cây ngô (cây bắp) ngoài đồng ruộng!?
Cứ theo đà này, thì hai câu: Ngô đồng nhất diệp lạc/
Thiên hạ cộng tri thu sẽ được giải
nghĩa là: ngô đồng =
bắp ngoài đồng ruộng /
nhất diệp lạc = có được dịp vui
mừng / thiên hạ cộng =
nhiều người họp lại (hợp tác
xã) / tri thu = biết trước sẽ được bội thu. Rồi sẽ cao
hứng dịch thành thơ: Vui mừng ruộng bắp trỗ
bông/ Phen này hợp tác
ắt là bội thu, thì tức cười chết đi mất.
Rồi ở Việt Nam, thời Lê trung hưng có đặt ra phép
Tĩnh điền là thửa ruộng
chung, tức ngoài phần ruộng của mỗi cá
nhân tự canh tác, ở
chính giữa có một phần ruộng chung mà mọi người dân
trong làng đều phải góp
công sức cày cấy, chăm sóc. Hoa lợi
trên phần ruộng này sẽ được dùng vào việc tế tự hàng năm của làng đó. Vậy nhưng nếu không hiểu về
phong tục tập quán, lễ hội cổ truyền của tổ tiên
ngày xưa, ắt sẽ giải thích bừa bãi Tĩnh điền =
thửa ruộng bỏ
hoang!?
Hay như cuối đời Trần, Hồ Quý Ly khi lên ngôi đã đổi quốc hiệu là Đại Ngu
mà lại đi
giải thích là ngu lớn, ngu to, ngu quá là ngu thì chỉ còn có nước kêu trời.
Trở lại câu chuyện, nhà thơ Trần Huiền
Ân cho biết thêm: “Sau này cứ mỗi dịp tết nguyên đán Phó Chủ tịch nước Nguyễn
Thị Doan cày tịch điền, rồi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang
cày tịch điền, mỗi lần TV chiếu cảnh này, bạn bè ở xa gọi điện thoại nói với
tôi: Ông mở TV ra xem lãnh đạo nhà nước cày tịch điền. Hãy hỏi mấy ông ý kiến
suy diễn kia có phải cày trên cánh đồng chết không?”
Những vụ lùm xùm về thơ diễn ra ở
Phú Yên nhiều đến mức địa phương này xuất hiện một bài vè: Phú Yên thi nạn diễn
ca (khuyết danh) đến nay còn lưu truyền trong làng văn: Thuở Phú Yên
nổi cơn gió bụi/ Khách văn chương nhiều nỗi gian truân…
Gần đây, khoảng trung tuần tháng 8 năm 2012 tại tỉnh Đồng Nai cũng xảy
ra chuyện lùm xùm quanh bài thơ Lời những cây dầu cổ thụ
ở trụ sở ủy ban nhân dân của
tác giả Đàm Chu Văn –chuyên viên cao cấp Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Đồng Nai kiêm
phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai, tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Đồng
Nai. Bài thơ như sau:
Lời những cây dầu cổ thụ ở
trụ sở ủy ban nhân dân
Tuổi ta nhiều hơn tuổi các ủy ban
bao nhiêu lượt mùa xuân về không nhớ nữa
những tòa nhà cao tầng có thể cao hơn ta nhưng vẫn cần sự che chở của ta
ta ủ rừng đại ngàn trong từng thớ cây mạch rễ
ủ thời gian trong xạc xào tiếng lá
ủ niềm vui, nỗi buồn những sớm nắng chiều mưa...
Sông Đồng Nai dâng tuần tự nhịp mùa
trong tầng tầng nước kia có hàng triệu giấc mơ thao thức
ta nghiêng vào sóng nước
nước tràn lên ta vô tận thời gian
nghiêng vào mênh mang
mênh mang nói với ta bằng lời của nắng
thuở nai, mễn đàn đàn ran suối vắng
“tác...tác...” gọi bạn tình náo nức nhịp rừng sôi
lặng như cây cũng muốn góp lời
có một cánh bướm trắng đang đậu trên ngực ta vụng dại và tin cậy
Một sớm mai thức dậy
hơi phố thị ngạt ứ lồng ngực
bằng bản lĩnh của loài tứ thiết
những cánh tay xanh cố trỗi vượt lên cao...
Ta phải nghe những mặn nhạt cuộc đời bên ký ức xưa bầu bạn
nơi quản lý và sản sinh những buồn vui, số phận...
những thánh nhân bên cạnh những tầm thường
chợt khát thèm một sớm mù sương
không nhìn rõ mặt người
mơ màng
hi vọng.
ĐÀM CHU VĂN
(Nguồn: báo Văn Nghệ ngày 16-4-2011)
Bài thơ đã từng được đăng trên báo Văn
Nghệ số 16 ngày 16-4-2011. Nhưng ngày 2-7-2012, một nhà văn nữ trẻ đã gửi đến
Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Đồng Nai một lá thư gọi là góp ý kiến (về việc phê bình
tư tưởng và việc làm của đảng viên), trong đó có đoạn: “Cảm nhận ban đầu của
tôi là bài thơ dùng nhiều từ ngữ hoa mỹ để nói thay một cái cây cổ thụ, song
bên cạnh đó lại thể hiện quan điểm chính trị một cách định kiến, ám chỉ khá tuỳ
tiện”… Bên cạnh thư góp ý kiến, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Đồng Nai còn nhận được
một “thư kiến nghị” nặc danh xung quanh bài thơ này. Theo“thư kiến nghị” thì: “Ngay cái tựa cho bài thơ đã có ý đồ
xấu”. Rồi người giấu tên viết tiếp: “Ông này ghê gớm thật! Ông ta mượn văn
chương, mượn cây dầu để so sánh mình với UB, và công khai nói ra những lời coi
thường chính quyền, coi thường địa phương, coi thường người đọc… Thực tế thì ai
che chở ai đây? Ở gần trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh tôi cũng thấy vài cây dầu
thật, nhưng so với tòa Ủy ban cao ngất, thì cây dầu chỉ thấp “đến nách” tòa
nhà, vậy mà ông ta nói: Nhưng vẫn cần sự che chở của ta”. Có thật thế không?…”
Đọc thơ và suy diễn thơ như thế nghĩ
cũng là… siêu.
Đầu
tiên, phải nói về cái đầu đề bài thơ. Nếu đầu đề
bài thơ là Lời những cây dầu cổ thụ ở nhà tôi chẳng hạn, thì sẽ không
có vấn đề gì. Nhưng vì tác giả Đàm Chu Văn đã viết Lời những cây dầu cổ thụ
trước ủy ban nhân dân, mới nên nỗi! Nhưng đọc kỹ, thì lời những cây dầu cổ
thụ trước UBND (tỉnh Đồng Nai chẳng hạn) ấy có nói cái gì sai quấy đâu! Chỉ là
những tâm sự, những trần tình, những nhắn gửi đầy yêu thương của một hay những
cái cây “cao tuổi”. Khi đã là cây cổ thụ thì tuổi thọ có thể lớn hơn các ủy ban
hay các tòa nhà cũng là chuyện bình thường. Chẳng lẽ, vì những cây dầu ấy hơn
trăm năm tuổi, lớn tuổi hơn các tòa nhà, kể cả tòa nhà ủy ban, mà nó “có vấn
đề”?
Nếu bắt bẻ thơ theo kiểu đó, thì còn ai
dám làm thơ nữa?
Những ví dụ về suy diễn thơ không chỉ
là bấy nhiêu đó, mà còn nhiều, nhiều lắm…
Xưa, thi sĩ Nguyễn Bính từng cảm thán
rằng: Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/ Nghèo lắm con ơi, bạc lắm con!
Nay, có lẽ thi sĩ không còn khổ vì nghèo, mà khổ vì bị… suy diễn! Và, hóa ra
làm thơ cũng là một… nghề nguy hiểm! (Trần
Nhã Thuỵ).
Tôi chẳng phải là thi sĩ thi siệc gì
cả. Tôi chỉ là một gã nhà quê, may mắn được cha mẹ nuôi ăn học biết đọc, biết
viết. Đua đòi tập tọng lên “phây” chia sẻ với các bạn gần xa những cảm xúc
riêng mình. Và tôi vẫn cứ nghêu ngao:
Gieo câu lục bát
vu vơ.
Mặc ai chê trách,
hững hờ, ghét thương…
Cũng rồi nhạt sắc
phai hương.
Trăm năm một cuộc
vô thường… vậy thôi!
Nha Mân, ngày 5 tháng 7 năm 2014.
Ngô Chí Trung.