Người hướng dẫn viên du lịch địa phương (quê Quảng Tây - Trung
Quốc) còn rất trẻ, tên là Thuật giới thiệu với chúng tôi đầy vẻ tự hào: Hồ Nam
là nơi đã sinh ra Chủ tịch Mao Trạch Đông. Sở dĩ tỉnh này có tên là Hồ Nam là
bởi vì vùng đất này nằm ở phía nam hồ Động Đình.
Tôi buột miệng hỏi lại:
"Hồ Động Đình" ư? Thế bạn có biết biên giới Nước Việt cổ của chúng
tôi ngày xưa từng đến hồ Động Đình không? Và khắp vùng Hồ Nam này, chắc chắn
còn rất nhiều đền thờ “Vua Bà”. Bạn có biết “Vua Bà” là ai không?
Thuật lắc đầu. Anh bạn trẻ là
hướng dẫn viên du lịch đã không biết. Và nhiều người Việt Nam đến du lịch vùng
đất Tương Tây này cũng không biết...
Vậy xin được cung cấp một bài
viết tư liệu dưới đây của nhà nghiên cứu Trần Hưng, để bà con cùng tham khảo và
cho ý kiến thêm nhé!
*
Vùng đất phía Bắc của người
Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới khu
vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Việc này
không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết mà còn nằm trong những
chứng tích của lịch sử.
I- Truyền thuyết đã cung cấp
thông tin về nước Việt cổ rất rộng lớn...
Theo Lĩnh Nam Chích Quái
(huyền sử) thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông)
sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và cưới
con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất
thông minh và đoan chính.
Đế Minh rất ngạc nhiên trước
tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế
nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.
Cuối cùng Đế Minh quyết định
truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua
phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên
đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không
xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.
Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử
do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi
lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích
Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía
Tây giáp với Ba Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.
Như vậy theo sự phân chia vào
thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Bách Việt lên đến Động Đình Hồ (phía
Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Hồ Bắc, Hồ
Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng Đông, v.v…
Nếu tính diện tích thì Bắc
giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau
này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105
Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của
Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.
Khi vua Kinh Dương Vương mất,
con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra Nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên
giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.
Trong khi đó, dù hậu nhân sau
này đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện
tích Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng
khoảng 1/10 so với trước kia. Dẫu đây chỉ là huyền sử thì không phải ngẫu nhiên
mà các địa danh lại xuất hiện trong huyền sử. Một số nhà nghiên cứu cho rằng
huyền sử này đã diễn tả lại một cuộc di dân của người Việt cổ về phương Nam,
cũng như sự kết hợp và chia tách của hai chủng Việt cổ lớn thời bấy giờ.
II- Hai Bà Trưng khôi phục
giang sơn Bách Việt như thế nào?
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt
cổ.
Hai Bà Trưng cùng các nữ
tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là
Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động
Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi
sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần
Thiếu Lan.”
Khi giành được giang sơn, Hai
Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường
Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở
tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận
đánh Động Đình Hồ như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu
Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai
nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua
Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt
phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái Sơn, đánh quân
Hán chết, xác lấp sông Trường Giang, hồ Ðộng Đình, oán khí bốc lên tới trời”.
Giáo sư Trần Đại Sỹ từng tới
Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân Hán,
thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động
Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ "Vua Bà" là ai.
Khi ông đến đến Côn Minh,
giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng
hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ Lăng.
Nay Bồ Lăng nằm trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường Giang và Ô
Giang.”
Giáo sư Trần Đại Sỹ đến bến
Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây
giáo sư được Sở Du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà.
Nhưng bản thân họ cũng không biết "Vua Bà" và 3 vị tướng này cụ thể
là ai, chỉ cho biết "Vua Bà" là người nổi lên chống tham quan thời
Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ "Vua Bà".
Miếu thờ có rất nhiều câu
đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối
này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
Phía trước cửa miếu có câu
đối rằng:
Khẳng khái, phù Trưng, thời
bất lợi,
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua Trưng,
ngặt thời của Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có câu đối:
Giang thượng tam anh phù nữ
chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:
Trên sông Trường Giang, ba vị
anh hùng phò tá nữ chúa,
Tại bến Bồ Lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu này cho thấy
biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ (phía Nam sông
Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).
Trải qua ngàn năm Bắc thuộc,
người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc, khiến khu vực
phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.
Năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo
người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của nước Việt.
Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ
qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở rộng về
phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.
III- Tư liệu lịch sử chứng
minh rằng truyền thuyết rất gần với sự thật: Nước Việt cổ rộng lớn gấp 10 lần
Việt Nam ngày nay!
Trong bài viết có tựa đề “Thử
tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài
diễn văn tiếng Pháp của giáo sư Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa
1991-1992 tại Viện Pháp – Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư
Trần Đại Sỹ đã nhắc tới nhiều luận điểm khẳng định biên giới Việt cổ nằm ở hồ
Động Đình. Những luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và
viếng thăm thực địa, trong đó nổi bật là:
1. Núi Ngũ lĩnh trong truyền
thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh này còn
có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam
Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.
2. Thiên đài mà Đế Minh tế
cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa
nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài
ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục”
tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua
Kinh Dương.
3. Cánh đồng Tương là nơi mà
Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư
Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn,
giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành
Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ
còn khu vực tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.
Cùng với một số luận điểm
vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:
Biên giới cổ của nước Việt,
với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình,
phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Vậy là diện tích nước Việt cổ
thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay!
Nhưng cũng xin ghi chú thêm:
Nước Việt cổ và người Việt cổ là khác so với nước Việt và người Việt hiện nay.
Người Việt hiện nay chỉ là một nhánh của người Việt cổ.
(Nguồn: TTVN)
Sưu tầm từ trang web: https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=828106727581417&id=100011462921364