Báo Người Lao Động
13-03-2008 - 11:58 AM|Thời sự trong nước
(NLĐO)- Vừa
qua, giới làm báo cũng như bạn đọc cả nước xôn xao trước loạt bài viết về
“Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” Để dư luận hiểu rõ
hơn về những vấn đề liên quan đến lịch sử dân tộc và khoa học lịch sử, theo đề
nghị của TTXVN, Tiến sĩ Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, đã
viết bài phản biện những vấn đề được đề cập trong loạt bài báo nói trên. Bạn
đọc có nhu cầu tham khảo những trích dẫn tên sách và tài liệu khoa học trong
bài, xin liên hệ trực tiếp với Tiến sĩ Nguyễn Việt (ĐTDĐ 0903440102 hoặc Email:
dr nguyenviet@yahoo.com).
Quả
là nhà báo Hoàng Hải Vân và báo Thanh Niên đã đạt được mục tiêu gây “chấn động”
thông qua loạt bài viết về thiền sư Lê Mạnh Thát và mượn lời thiền sư để gây ra
một chấn động thực sự trong giới sử học cũng như những người yêu sử. Tôi viết
bài này với cả hai tư cách : Người nghiên cứu lịch sử và người yêu sử. 1. Có
thể thiền sư Lê Mạnh Thát đã có những phát hiện có giá trị cao về tư liệu lịch
sử. Nhà báo Hoàng Hải Vân (HHV) đã mở đường cho loạt bài của mình bằng phần
giới thiệu rất ấn tượng về thiền sư Lê Mạnh Thát (LMT) (học vấn uyên bác, nhiều
bằng cấp học vị, thông thạo nhiều ngoại ngữ và có trọng trách trong Phật giới).
Tuy nhiên, do hoạt động khoa học của ông chủ yếu ở trong Phật giới nên quả thực
không mấy người trong giới học thuật “ngoài đời” biết tiếng ông. Bản thân tôi,
sau khi đọc loạt bài viết về ông, xin có mấy ý kiến như sau : a. Thiền sư LMTcó
thể là một nhà nghiên cứu Phật giáo uyên bác. Ông đã có điều kiện và đã dành
rất nhiều công sức để khai thác từ những tàng thư kinh Phật và sách sử liên
quan đến kinh Phật. Quả thực, đây là một loại hình tư liệu có liên quan đến
lịch sử văn hoá dân tộc nhưng không dễ khai thác đối với các nhà khoa học ngoại
đạo. Chúng ta đều biết rằng nhà chùa và nhà thờ trong một thời gian dài dưới
thời trung cổ luôn là những trung tâm văn hoá, giáo dục kiến thức khoa học. Rất
nhiều nơi trên thế giới, các trường đại học đầu tiên ra đời từ các trung tâm
tôn giáo như vậy. Trong hệ thống này, từ rất sớm đã có những kho lưu trữ, tàng
thư, thư viện và những nhà tri thức uyên bác. Vì vậy, tôi trân trọng và đánh
giá cao một số phát hiện của thiền sư LMT mà nhà báo HHV đã giới thiệu trong
loạt bài viết, ví dụ cuốn Lục độ tập kinh, sáu lá thư hồi đầu công nguyên, một
số văn cảo, thơ ca do các nhà sư Việt Nam trước tác...Chắc chắn tới đây tôi và
nhiều đồng nghiệp khác sẽ mong muốn được tiếp cận tìm hiểu những tư liệu mới
này. b. Có nên chăng chỉ vì những phát hiện cá nhân về sử liệu mà xúc phạm các
bậc tiền nhân : Không hiểu những hành vi của thiền sư được nhà báo HHV viết
trong bài có đúng sự thực không, như việc nhà sư bức xúc nổi xung văng tục
trước nhà Sử học Ngô Sĩ Liên, chê cười một cách quá dễ dãi đối với nhà bác học
Lê Quý Đôn hoặc trở nên “đanh đá” một cách thái quá với Triệu Đà, An Dương
Vương. Tôi không muốn luận bàn về học thuật với thiền sư LMT chỉ thông qua
những bài viết của nhà báo HHV, nhưng nếu nhà báo HHV viết chân thực về thiền
sư thì quả thực ta thấy những lời trách cứ tiền nhân mà ông và nhà báo Hoàng
Hải Vân sử dụng thật vội vàng và khó tiếp thu quá. Đó là chưa kể, khi đi vào
thảo luận học thuật, chưa chắc thiền sư Lê Mạnh Thát đã hiểu đúng bản ý của sử
gia Ngô Sĩ Liên. Những lầm lẫn của nhà bác học Lê Quý Đôn khi dẫn chép lại các
sách sử xưa cũng đã được phát hiện không phải là ít, chính vì vậy mới có công
tác hiệu đính, bổ sung văn bản. Những nhầm lẫn như vậy trong khoa học cũng như
trong sách sử kể ra thì nhiều lắm. Nhưng ngay cả những nhà hiệu đính văn bản cổ
vào hạng bậc thầy như các giáo sư Đào Duy Anh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng …
khi phát hiện những sai sót cũng chưa bao giờ dám dùng đến từ “khốn nạn” trên
mặt báo để trách cứ, phê phán tiền nhân như thiền sư Lê Mạnh Thát. c. Thiền sư
LMT có thể là một học giả uyên bác nhưng không phải một nhà sử học chuyên
nghiệp. Phải thừa nhận rằng bằng trí tuệ thông thái và lòng ham mê tra cứu,
thiền sư LMT sẽ còn mang lại nhiều phát hiện mới về sử liệu và văn học có giá
trị cho Phật học và Khoa học nhân văn Việt Nam nói chung. Chúng ta đang sống
trong thời đại có xu hướng chuyên hoá các lĩnh vực hoạt động xã hội. Rõ ràng,
trong phạm vi Phật học, chắc chắn thiền sư LMT là một chuyên gia rất đáng kính
nể. Ông đã từng dồn tâm sức, trí tuệ trong việc khai thác kho tàng văn bản của
các tàng thư phật giáo trong và ngoài nước, nhưng đã không quên góp sức vào
việc đời bằng những phát hiện, thu thập tư liệu liên quan đến lịch sử dân tộc với
nguyện vọng làm chính xác hơn lịch sử. Tuy nhiên, không mấy khó khăn để nhận ra
ông không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp. Tôi nhận thấy và cảm thông
những lúng túng, tuỳ tiện trong cách xử lý tư liệu của ông. Ví dụ ông tự cho
mình cái quyền suy diễn chữ “Việt luật” trong tờ tấu của Mã Viện là bộ luật
“thành văn” để chứng minh sự tồn tại một bộ máy nhà nước của người Việt đã có
những văn bản pháp luật viết bằng chữ Việt cổ (TN 28.2.08). Ở đây có hai vấn
đề, thứ nhất “Việt” là một phạm trù tộc danh rất rộng chỉ chung những nhóm tộc
người khác Hoa Hạ ở phía nam sông Giang Thuỷ (Trường Giang). Bản thân chữ Việt
không bao hàm nghĩa quốc gia, nhà nước. Thứ hai, khi người Hán (tên gọi người
Hoa Hạ dưới thời nhà Hán) chinh phục miền đất phía nam của người Việt nhận thấy
phong tục của người Việt khác phong tục của người Hán khó cho việc cai trị nên
mới xuất hiện bản tấu của Mã Viện. “Luật” ở đây phải hiểu là “luật tục” như từ
ngữ mà chúng ta hiện dùng cho các quy ước xã hội trong các vùng dân tộc thiểu
số nước ta. Nhiều nhà khoa học nước ta cũng như các học giả trên thế giới rất
muốn chứng minh tính chất nhà nước của xã hội Hùng Vương, nhưng chưa ai dám
dùng “Việt luật” trong bản tấu của Mã Viện để làm bằng chứng như thiền sư cả.
Không phải họ không biết bản tấu của Mã Viện, mà ở chỗ không ai chứng minh được
“Việt luật” trong tấu chương đó là một quyển sách có chữ viết thể hiện cho cuốn
luật của một nhà nước. Trong một đoạn khác, khi thiền sư LMT muốn minh
chứng một “thiện ý” là nước ta không bị nhà Tây Hán đô hộ sau khi họ chinh phục
được nước Nam Việt của Triệu Đà, ông đã sử dụng phương pháp loại trừ “Phiên
Ngung” không thể coi như “nơi đô hội” bằng cách chia bình quân số nhân khẩu của
quận Nam Hải ra cho 6 huyện để tự áp cho Phiên Ngung - từng là thủ phủ của nước
Nam Việt, một con số trung bình (15 ngàn người) để so với các huyện của Giao
Chỉ trung bình lên đến 75 ngàn người. Từ đó suy ra Giao Chỉ không thuộc Tây Hán
(TN 3.3.08). Hình như ông đã không tham khảo các công trình nghiên cứu về Lịch
sử nhân khẩu học và Lịch sử địa lý Trung Quốc và cũng cố tình không để ý đến
ngụ ý Phiên Ngung thành trấn (“đô hội”) chứ không phải cả một vùng Phiên Ngung
huyện. Nếu biết rằng trong toàn quận Nam Hải lúc đó có 94.253 khẩu nhưng mật độ
dân số trung bình chỉ đạt dưới 1 người trên
(Còn tiếp)
https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/nhin-lai-loat-bai-thien-su-le-manh-that-va-nhung-phat-hien-lich-su-chan-dong-217847.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét