Báo Nhân Dân điện tử
Thứ Hai, 10-03-2008, 16:34
Chúng tôi xin đăng bài viết của tác giả TRƯƠNG THÁI DU (nhà
nghiên cứu cổ sử ở TP Hồ Chí Minh, đã từng công bố một số công trình như: Một
cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam, Triệu Ðà và nước Nam Việt trong dòng
chảy lịch sử Việt Nam, Ghi chú nhỏ về An Dương Vương...) để góp phần chia sẻ
thông tin cùng bạn đọc.
Vì yêu thích cổ sử và ít nhiều đã có một số công trình biên khảo
nhỏ, tôi đặc biệt chú ý và theo dõi rất kỹ vấn đề ông Lê Mạnh Thát theo đuổi.
Từ việc đọc bài báo "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn
động" đăng trên một tờ báo, kết hợp với tìm hiểu quyển Lục độ tập kinh
(LÐTK) và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta (Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, năm
2006) của tác giả Lê Mạnh Thát, tôi xin trình bày một số ý kiến sau đây:
Một số điểm nổi bật
Xuyên suốt loạt bài báo nói trên và quyển LÐTK, có thể nhận ra
mấy vấn đề... rất "mới" ông Thát đưa ra là:
1. Truyện mẹ Âu Cơ đẻ trăm trứng nở trăm con có nguồn gốc từ
nước Phật.
2. Truyền thuyết An Dương Vương không có thật, nó là phiên bản
của một câu chuyện Ấn Ðộ.
3. Triệu Ðà chưa từng xâm lược nước Việt cổ.
4. Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trước thời Hai Bà Trưng là những
quận mà triều đình Hán "đoạt khống", tức đặt tên trên bản đồ nhưng
không chiếm đóng trực tiếp.
Kết hợp với việc giải mã lịch sử ẩn trong kinh Phật, ông Thát
chứng minh từ Vua Hùng đến Hai Bà Trưng, nước ta hoàn toàn độc lập, có đầy đủ
chữ viết, luật tục, thi thơ, lễ nhạc. Quan điểm của ông Lê Mạnh Thát thiên về
tính bản địa của văn minh Việt
Bằng việc rút mắt xích An Dương Vương và Triệu Ðà khỏi chuỗi Vua
Hùng - An Dương Vương - Triệu Ðà - Hai Bà Trưng, ông Thát bẻ cong sử liệu để
nối Vua Hùng trực tiếp với Hai Bà Trưng. Phương pháp luận này tạo ra một lỗ
hổng lớn như sau: Thời Hùng Vương, qua truyền thuyết nước ta, chỉ có thể đang ở
chế độ Phụ hệ hoặc Mẫu hệ với lãnh tụ là nam giới. Trong khi đó, thời Hai Bà
Trưng, chắc chắn nước ta ở chế độ Mẫu quyền. Nội hàm mẫu quyền bao gồm: mẫu hệ
và lãnh tụ là nữ giới.
Chuỗi Hùng Vương - Hai Bà Trưng của ông Thát phô ra sự thụt lùi
phi thực tế về văn minh Việt cổ, đi ngược lại hình thái phát triển chung của
nhân loại là Mẫu quyền đến Mẫu hệ rồi mới đến Phụ quyền. Hơn nữa, dù tham khảo
thêm khái niệm "Mô hình xã hội lưỡng hệ" của GS sử học Hàn Quốc In
Sun Yu trong quyển Việt
Nhằm lý giải mâu thuẫn này, không ít học giả xưa nay nghi ngờ đã
có những cuộc di cư lớn của người Lạc Việt từ miền nam Trung Hoa đến đồng bằng
sông Hồng, dưới sức ép bành trướng lãnh thổ cũng như xâm lăng văn hóa của nền
văn minh Hoa Hạ. Hệ lụy của cuộc di tản bất đắc dĩ đã khiến xã hội Lạc Việt đi
giật lùi, trở ngược về hình thái xã hội Mẫu quyền (?) Tiếc là, hướng nghiên cứu
ấy phủ nhận thuyết bản địa của văn minh Việt Nam, điều mà toàn bộ quyển sách
LÐTK nói riêng và nền sử học Việt Nam không đồng tình. Vì cố gắng khỏa lấp lỗ
hổng đó, ông Lê Mạnh Thát đã cố công "Xác định Việt Thường là Cửu
Chân" và "Nói thẳng ra, nước ta gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
Nam cho đến năm 43 sdl vẫn là một nước độc lập, của vua Hùng vẫn cai trị và
nước có tên là Việt thường hay Việt thường thị" (LÐTK trang 318, 319).
Nghĩa là, ông Lê Mạnh Thát chia cho Vua Hùng quận Cửu Chân, Hai Bà Trưng quận
Giao Chỉ (?) Xin các bạn tự đưa ra kết luận sau khi cùng tôi tham khảo tác giả
Ðào Duy Anh trong cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam (NXB VHTT 2005, trang 218, 219)
viết: "Sách Ðiền Hệ của Súy Phạm viết về các dân tộc thiểu số ở miền Vân
Nam cho biết rằng một dân tộc thiểu số tên là Sản Lý hay Xa Ly, có truyền
thuyết nói rằng đời Chu Thành vương họ sai sứ giả đến triều cống, khi về được
Chu công cho xe chỉ nam, vì thế họ lấy tên là Xa Lý. Lại có một dân tộc khác là
Lão Qua có truyền thuyết rằng ở thời nhà Chu, tổ tiên của họ là nước Việt
Thường. Sách Ðiền nam tạp chí thì nói Diến Ðiện là nước Việt Thường xưa. Những
dân tộc kể trên nhận Việt Thường là tổ tiên xa của mình đều có thể là di duệ
của người Di Việt, tức của người Việt tộc xưa cả. Do đó chúng ta có thể đoán
rằng nước Việt Thường xưa, một nước của Việt tộc ở miền nam Dương Tử, có thể
tồn tại thực, cho nên một số dân tộc di duệ của Việt tộc ngày nay, trong ấy có
Việt Nam, vẫn còn ghi nhớ mà xem như nước tổ của mình".
Ðiều tồn nghi trên phương diện văn bản học về khái niệm
"Ðoạt khống"
Gút mắc lớn nhất và "chấn động" lớn nhất, theo tôi, là
việc ông Lê Mạnh Thát khẳng định ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là
"... "đoạt khống" đất đai nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành
trướng của nhà Hán mà thôi". Lập luận trong bài báo là: Tượng Quận nằm
ngoài lãnh thổ Việt
Quan điểm này đã có hàng trăm năm nay với những cái tên quen
thuộc như Maspero, hoặc hoàn toàn xa lạ như Guime Saeki (Tạp chí Nam Phong, số
133, năm 1928). Thực ra, học giả Nguyễn Văn Tố đã bác bỏ Maspero một cách
thuyết phục như sau: Hán Thư chép năm 76 TCN bỏ Tượng Quận, lấy đất ấy nhập vào
Uất Lâm và Tường Kha. Ðây là Tượng Quận của đời Hán chứ không phải của đời Tần.
Quyển Lính Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi có đoạn nói Hán Vũ Ðế chiếm Nam Hải đã
tách Tượng Quận của Tần làm ba Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, lại cắt một ít Nam
Hải và Tượng Quận để thành Hợp Phố. Nguyễn Văn Tô đã đi xa hơn khi khẳng định
"... người Tần bấy giờ mới đi đến Quế Lâm, còn từ Quế Lâm trở vào chẳng
biết rộng hẹp thế nào, cứ đặt một quận để gọi là có tên...".
Trước tháng 10-2004, trước khi sách của ông Thát ra đời gần hai
năm, trong nhiều bài khảo cứu đăng trên mạng, tôi đã chứng minh bằng thiên văn
một cách có hệ thống tính khái niệm của ba từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nó
tương đồng hoàn toàn với định nghĩa "đoạt khống" của ông Thát. Về
phần tôi, khó ai có thể quy kết tôi đã tham khảo ông Thát khi dùng thuật toán
thiên văn rất riêng của một người đi biển yêu cổ sử. Trên giấy trắng mực đen
của văn bản học, người nêu ra vấn đề trước (2004) có quyền nghi ngờ người in
sách sau (2006). Nếu độc giả tin tưởng ông Thát, xin vui lòng giúp ông Thát
chứng minh giữa sách in và bản thảo có khoảng cách "an toàn", giúp
hai hướng nghiên cứu này cùng góp phần làm sáng tỏ lịch sử Việt
Về sử liệu mà ông Lê Mạnh Thát sử dụng
Sử liệu về cổ sử Việt
Ngoài ra, có thể nói, ông Lê Mạnh Thát đã khai thác một chiều sử
liệu Trung Hoa. Trong LÐTK, ông sử dụng khá nhiều văn bản Trung Quốc, nhưng
đáng tiếc phương pháp của ông rất cảm tính. Thứ gì có lợi cho thuyết của ông,
thì ông xem như chân lý và không nhìn nhận nó dưới nhiều góc độ. Việc
"phân đất" Cửu Chân cho Vua Hùng ở trên là thí dụ thứ nhất. Thí dụ
thứ hai: Trong mục Về vấn đề chín quận, trang 319 đến 327, ông Thát dẫn từ Tiền
Hán Thư các con số thống kê dân số năm thứ 2 sau công nguyên. Ông xem nó đúng
một cách tuyệt đối và dông dài phân tích các con số. Ở đây, tôi muốn trích lời
Xtép-phen Ơ Ha-râu (Stephen O'Harrow), trong quyển Những vấn đề
lịch sử Việt Nam (NXB Trẻ 2001, trang 30) bình luận trên cùng những con số này:
"Vào đầu thế kỷ I sau công nguyên, người Trung Hoa nói chung cũng không
thật giỏi giang và chính xác lắm, chưa kể họ còn sử dụng tri thức vì lợi ích
của họ".
Một dẫn chứng nữa: Ngày nay, dưới nhãn quan thiên văn hiện đại,
người ta phát hiện rất nhiều ghi chép thiên văn cổ Trung Hoa có những sai lệch.
Chẳng hạn các sao hung cát đã không ít lần được sử quan cho chiếu xuống Trung
Quốc không theo chu kỳ mà đa số sử quan đã rất am tường. Giả thiết là, đây hẳn
nhiên mang dấu ấn chính trị nhằm tác động đến nhóm người mê tín nào đó có
quyền đưa ra các quyết sách quan trọng.
Nếu lật ngược con số nhân khẩu Giao Chỉ rất lớn ở Tiền Hán Thư,
ta có thể đưa ra giả thiết: Nhóm mang dã tâm bành trướng trong triều đình Hán
muốn kê dân số Giao Chỉ lên cao để chứng minh nơi này đất rộng, người đông, sản
vật phong phú, nếu chiếm đóng sẽ mang nhiều lợi ích cho Hán tộc. Ðọc truyện Giả
Quyên Chi trong Hán thư, ta thấy triều Hán lúc nào cũng có hai nhóm ủng hộ và
phản bác việc mở rộng và trực trị cương giới phía nam.
Tạm kết
Trong khuôn khổ một bài báo ngắn mà tôi viết, chỉ ra sự bất cập
trong các nghiên cứu "chấn động" của ông Lê Mạnh Thát, không thể quá
dài dòng và truy đủ cước chú. Mặc dù, còn khá nhiều lỗ hổng, nhưng công trình
của ông Thát cũng như tất cả công trình khảo sử của bất cứ ai đều cần được thảo
luận một cách bình đẳng. Trong thực tế, có thể việc tiến hành nhiều cày xới,
đưa ra nhiều suy biện thì người đọc càng có cơ hội tiếp cận gần nhất sự thật
lịch sử. Song, sự cày xới phải được tiến hành trên cơ sở của luận chứng khoa
học, và hiển nhiên, khoa học không phải là nơi dung chứa các suy biện cảm tính,
làm nhiễu loạn nhận thức chung của xã hội và công chúng về vấn đề lịch sử được
đặt ra. Ðáng nói hơn, những suy biện cảm tính đó lại được đưa ra trước công
luận với những lời lẽ tùy tiện trong bài báo, xúc phạm các nhà sử học tiền bối
đáng kính trọng của dân tộc.
TRƯƠNG THÁI DU
Đăng lại từ địa chỉ
https://nhandan.com.vn/dien-dan/V%E1%BB%81-c%C3%A1i-g%E1%BB%8Di-l%C3%A0...-nh%E1%BB%AFng-ph%C3%A1t-hi%E1%BB%87n-l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD-ch%E1%BA%A5n-%C4%91%E1%BB%99ng-488986/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét