Dân Việt ta có truyền thống yêu thích
thơ ca, nên có rất nhiều người làm thơ. Có thể nói là ra ngõ gặp nhà thơ. Nhà
thơ Huy Trụ đã nói khá hay:
" Thơ là
rượu của thế gian
Phải đâu nước
lọc rót tràn mời nhau"
(Gửi bạn làm
thơ)
Để rồi chính ông
cũng trăn trở, nghĩ suy, những bài thơ mình làm, những tập thơ mình đã xuất bản
có phải là thơ đích thực, hay đó chỉ là thứ "nước lọc" nhạt nhẽo mà
người ta vẫn thường đưa ra "mời nhau". Người làm thơ thì nhiều, hàng
đống tập thơ đã được in ra, nhưng kiếm cho được loại thơ "rượu của thế gian"
ấy cũng đâu có dễ!
Hồi còn học phổ
thông, tuổi học trò yêu thích thơ, tập tễnh làm thơ, tôi phục và sợ các nhà thơ
tên tuổi, chỉ với thể loại thơ truyền thống rõ ràng, dễ hiểu mà chuyển tải cảm
xúc đến với người đọc. Ta hãy nghe Xuân Diệu:
Đố ai định nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.
Hoặc như Tú Xương:
“Lúc túng toan lên bán cả trời….” hay Hàn Mặc Tử: “Ai mua trăng tôi bán trăng
cho…” thì quả là đáo để. Khi đã bị “thơ nhập” thì bất kể, đến trời nhà thơ cũng
rao bán, làm ta liên tưởng đến câu nói: “Bán trời không mời Thiên Lôi”.
Tuy nhiên, có lẽ do
thơ truyền thống rõ ràng, dễ hiểu nên dễ bị săm soi về chữ hoặc câu (về mặt ý nghĩa) thừa, không cần thiết –
có khi vướng víu dòng chảy của tứ thơ. Ví dụ:
Em
sẽ đến với tình yêu bằng nửa trái tim yếu đuối
Còn nửa kia, đành giữ lại để... nghi ngờ
Còn nửa kia, đành giữ lại để... nghi ngờ
Em
sẽ không hề nghĩ đến mầm cây khi nhìn những giọt mưa
Có thể rồi sẽ quên cả màu của lúa
Có thể rồi sẽ quên cả màu của lúa
Quên
bài địa lý quê hương, những miền nào đất đen đất đỏ
Sẽ nhọc nhằn khi định nghĩa chữ "dòng kênh"
Sẽ nhọc nhằn khi định nghĩa chữ "dòng kênh"
… … …
(Nếu Không Có Ngày 30 Tháng Tư, thơ của Đinh Thị Thu
Vân)
Chữ “đành” không cần thiết. Không những thế, lại không
hợp với câu thơ.
Chữ “chữ” không chính xác; phải nói “hai chữ” (hoặc
“từ”) “dòng kênh” mới đúng. Nhưng tốt nhất là bỏ đi, để “dòng kênh” đứng một
mình - vừa gọn, vừa hay.
Cũng có khi vì bám sát theo vần điệu mà bị bắt bẻ là
để cho chữ, nhóm chữ hoặc câu thơ cản dòng chảy của tứ thơ. Ví dụ:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
(Chăn Trâu Đốt Lửa, thơ của Đồng
Đức Bốn)
Rạ rơm ít, gió lại nhiều, đốt lửa
lên mà không luôn tay chăm sóc thì chỉ một loáng là lửa tắt; đàng này lại còn
lo thả diều thì củ khoai chưa chắc đã chín chứ nói gì đến cháy thành tro. Câu
“Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” gây khó khăn, cản trở cho việc cảm nhận ý của câu kết
“Củ khoai nướng để cả chiều thành tro”.
Đó là chưa kể đến ở thể thơ lục bát,
nếu dễ dãi trong cách nói bắt vần cũng bị cho là hò vè, là sến sẩm chớ không
phải thơ.
Lại
nữa, làm thơ theo lối cổ điển thì nếu viết thiếu chữ, viết lạc vần là bạn
đọc nhận ra ngay. Ôi thì là… thơ với thẩn!
Nhưng
nói đến thơ tự do, thơ cách tân thì lại khác. Thơ cách tân sáng tác theo từng
đoạn, từng nhóm chữ. Người đọc phải đọc hết đoạn, hết nhóm đó mới nắm
được cái ý chính của nhà thơ muốn nói gì.
Thơ
tự do, thơ cách tân cũng không câu nệ vào số câu, không phải tuân theo
niêm luật, vần điệu, muốn diễn tả ra sao thì viết, miễn sao truyền đạt
được những gì muốn nói với người đọc.
Tùy
vào ý thích của mỗi người, trình độ thưởng thức, nhận định thấp cao, tùy
tâm trạng mà người đọc thấm thía, cảm thông cùng tác giả. Do đó, trong một bài
thơ tự do, thơ cách tân, nhà in sắp thiếu một hai câu hoặc lầm một hai chữ
cũng ít ai nhận ra hoặc bắt bẻ phải như thế này thế nọ!!!
Và
cũng bắt đầu từ đây, có một bộ phận những người làm thơ theo trường phái này đã
sáng tác ra một loại thơ văn xuôi tẻ nhạt, xuống dòng cẩu thả, tùy tiện; ý tứ
rối rắm khó hiểu rồi cho đó là phong cách thơ hiện đại.
Xin
trích dẫn bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Quý:
THƠ KHÓ HAY
LÀ SỰ HÙ DỌA NGƯỜI ĐỌC?
Trong thời gian qua, trên một số báo và tạp chí người ta
đưa ra bàn luận về vấn đề thơ khó. Có vẻ như khái niệm thơ khó thường được gắn
cho những bài thơ không viết theo kiểu truyền thống. Theo họ, khó hiểu là một
đặc trưng của thơ cách tân và là sản phẩm tất yếu của đổi mới thi ca, không dễ
tiếp cận được với đông đảo người đọc. Nói cách khác nó rất kén chọn người đọc,
càng khó tìm được tri kỷ tri âm. Có tác giả còn hào hứng lý giải rằng, điều đó
phản ánh đúng sự phức tạp bí ẩn của tâm hồn con người; mỗi cá thể là một vũ trụ
riêng, một thế giới riêng nên thơ cũng phải như thế.
Không ai chối cãi sự đa dạng về phong cách thơ. Có bao
nhiêu nhà thơ là có bấy nhiêu phong cách sáng tác. Hay nói chính xác hơn thì
bài thơ mang dấu ấn sáng tạo riêng biệt của tác giả mà sự chọn lựa hình thức
biểu hiện của họ bao giờ cũng mang tính tự do, độc lập rất cao. Tuy vậy, chúng
ta không thể không thừa nhận rằng mỗi thể loại văn học đều có những đặc trưng,
tiêu chí, biểu hiện chung của nó. Cũng là nghệ thuật sử dụng ngôn từ nhưng cách
tổ chức tác phẩm của thơ khác văn xuôi và kịch bản sân khấu điện ảnh. Tính tổ
chức của thể loại là điều có thật, dù rộng hẹp đến bao nhiêu cũng phải là nó,
cao thấp thế nào cũng phải có giới hạn. Giới hạn thể loại buộc người cầm bút
bay đúng quỹ đạo ngành nghệ thuật mình chọn lựa.
Thơ, trước hết hãy là thơ. Là tiếng nói của tâm
hồn, là quy luật của cảm xúc (Xuân Diệu). Theo tôi, muốn làm được thơ
tác giả phải hiểu thơ. Thế nào là thơ lục bát, thơ thất ngôn, lục ngôn, ngũ
ngôn…, thơ tứ tuyệt, thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ sắp đặt… rồi còn cấu tứ, thi
ảnh, thi nhãn, tiết tấu, vần điệu… Quy luật, bí quyết nào để thơ có sức truyền
cảm rộng rãi, sâu sắc và bền vững rồi tính đa nghĩa, biểu tượng, ẩn dụ… của nó;
đó chính là những yếu tố, thủ thuật mà người sáng tạo thi ca không thể bỏ qua.
Tự do, phóng túng đến bao nhiêu thì người làm thơ cũng phải tuân thủ những yếu
tố đó. Đường bay của chim khác với đường bơi của cá, thổi cơm khác nấu rượu,
nhịp phi của tuấn mã khác với bước chạy của trâu bò, hát khác với nói thông
thường… Và, xin nhắc lại, cũ mới gì, truyền thống hay hiện đại thì thơ trước
hết phải là thơ.
Chớ lầm tưởng rằng thơ hiện đại, thơ mới phải là thơ khó
hiểu; thơ dễ hiểu thuộc về kiểu thơ cũ, thơ truyền thống. Tôi đã từng viết:
Thực ra khó hiểu hay dễ hiểu không phải là tiêu chí của thơ, mà thơ hay chính
là sự lay động người đọc ở cảm xúc mạnh, ở tính đa nghĩa của hình tượng, ở sự
hợp lý đắc địa của ngôn từ. Giá trị của thơ nằm ở việc phát hiện vấn đề, tìm và
dựng tứ độc đáo, ở tính sáng tạo trong thiết lập cấu trúc bài, chọn lựa hình
tượng khác lạ, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ nhuần nhuyễn đổi mới.
Xin lấy một ví dụ để chứng mình điều trên. Đó là bài Cây
chuối của Nguyễn Trãi làm ra từ thế kỷ 15: Tự bén hơi xuân
tốt lại thêm/ Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm/ Tình thư một bức phong còn kín/ Gió
nơi đâu gượng mở xem.
Thơ ở đẳng cấp cao không lộ ra, không nói hết mọi điều
nhưng không vì thế mà tù mù hũ nút, đánh đố người đọc. Cái bí ẩn cũng là cái mê
hoặc của thi ca dẫn người đọc đi vào những mê lộ khám phá mới. Khám phá để nhận
biết chiều sâu nội dung tư tưởng và tình cảm của tác phẩm cũng như vẻ đẹp của
nghệ thuật. Nó gợi mở cho ta nhiều lối nẻo để kiếm tìm chứ không hề bưng bít
khép kín. Nếu nói về miêu tả thì chắc không nhiều người tả cây chuối đẹp và lạ
như thế. Bàn tới sự đa nghĩa thì chắc Cây chuối không thua
kém thi phẩm nào. Trong tôi, hiện lên một Ức Trai đa cảm, đa tình lắm. Tự
bén hơi xuân tốt lại thêm. Mối liên hệ giữa Mùa (xuân) – Cây (chuối) là
mối liên hệ của tình yêu; đối chiếu vào con người ta thấy mạch yêu ấy không
ngừng tuôn chảy. Cây bén hơi xuân, người bén hơi người, cả hai đều tươi tốt
thêm. Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm. Tình yêu đã đến độ kết
trái, tỏa hương nhưng hình như vẫn còn có điều gì đó nữa nên mới Tình
thư một bức phong còn kín. Những nỗi niềm, những uẩn khúc, những mong ước
chưa giãi bày thổ lộ? Những xao xác tơ non còn rưng rưng giấu kín trong
lòng? Gió nơi đâu gượng mở xem. Theo tôi, đây là một mời gọi khám
phá rất tinh tế và cũng rất hiện đại cách đây 6 thế kỷ rồi.
Thơ càng có nhiều tầng nghĩa càng sâu sắc, càng hay và hình
như gắn với nó phải là sự tột cùng giản dị. Câu thơ Mái buồn nghe sấu
rụng của Chính Hữu vừa có cảnh vật vừa có hồn người nhờ từ nghe.
Tâm trạng con người được diễn đạt tinh tế và chính xác bằng một câu thơ cô
đọng, không thừa không thiếu và quá gợi cảm. Phạm Tiến Duật viết: Vào
rừng chẳng thấy lối ra/ Nhìn cây núc nác ngỡ là vàng tâm đầy ẩn ý
đằng sau một câu thơ rất bình dị. Trần Đăng Khoa cũng thế, Mái gianh
ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương, tính biểu tượng
phát huy hiệu quả ở đây vượt xa câu Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng
rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Câu thơ từng được coi là bí ẩn của Nguyễn
Xuân Sanh Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà chỉ là một kiểu viết
cầu kỳ không làm tôi thích bằng Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng
trong nghiên sầu của Vũ Đình Liên hay Màu thời gian không
xanh/ Màu thời gian tím ngát/Hương thời gian không nồng/ Hương thời gian thanh
thanh… của Đoàn Phú Tứ. Cái bí ẩn (tôi không muốn dùng từ khó hiểu) của
thơ đâu phải là sự tù mù, rối rắm, càng không phải là để khéo léo giăng bẫy
đánh đố người đọc. Những nhà thơ nổi tiếng xưa nay hình như không ai đưa thơ
mình vào “chỗ khó” cả, với họ thơ phải có hồn và ẩn chứa nhiều ý tứ sâu xa và
kín đáo như Chế Lan Viên liên tưởng: Những câu thơ lẫn khuất/Mọc góc
xa của rừng; hay Lê Đạt thực ảo đan xen: Mùi mưa xưa/lòng chưa
tạnh/ phố nhau đầu; hoặc lạ như Lưu Quang Vũ: Lòng như vầng trăng
nhọn/ Chém giữa trời không nguôi…
Tôi không hiểu vì sao một số người lại nhân danh cách tân
hiện đại thơ đi cổ súy cho kiểu viết tù mù, quái đản như trường hợp trường ca
mang tên Ễn lên đêm của Lê Hưng Tiến. Ễn lên đêm là
gì? Họ giải thích, đó là Em lên đỉnh. Đâu còn sự trong sáng của tiếng Việt nữa.
Trời ơi là Trời, cái lối viết ngọng lô ngọng líu này mà là thơ ư? Là hiện đại
thơ, đổi mới thơ, cách tân thơ, cách mạng thơ ư? (Nguồn http://lehungtien.vnweblogs.com/a36164/en-len-dem.html).
Rồi, có kẻ tung hô
ngợi ca kiểu viết: Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh/
những đế giày chuẩn bị vỡ tung/ chân tường mở cánh cửa thoát hiểm/ bụi mưa phùn
hay châu chấu bay qua/ cả ngôi nhà lao đi chóng mặt/ sửng sốt, rã rời khi gặp
bình minh của MVP hay: Bước chân trượt trên đá sỏi/ Xuống
sườn dốc lòng hồ/ Nơi ấy nước nằm lõa lồ trên đất/ Thèm được biến tan/ Đồi nhả
ra những viên đá rắn cứng/ Và làm đau những đầu lưỡi sóng của ĐDP…
Xin đừng hù dọa người đọc những kiểu viết như vậy nữa. Tôi
tin rất nhiều bạn đọc thời nay đủ tỉnh táo để nhận biết đâu là đổi mới thật đâu
là đổi mới giả. Cũng đừng lấy cái khó của thơ để cột buộc những người không
đồng tình hay phản đối lại kiểu viết ấy là cổ hủ lạc hậu, không biết đọc thơ
hoặc bởi định kiến. Không ai có định kiến với thơ hay cả.
Tôi
nhớ Nam Cao viết trong “Đời thừa”: Văn chương chỉ dung nạp những người
biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những
cái gì chưa có... Những cái gì chưa có là giá trị đích thực của văn chương
nói chung và thi ca nói riêng chứ không phải là sự vẽ bày tạo ra Từ
ngữ kềnh càng, văn chương vô lối (Thơ cầm tay) như Chế Lan Viên tâm
sự. Đừng trở thành những người làm thơ… đã không trả còn vay, còn ăn
quỵt. Họ có mười mà tên tuổi đến mười mươi (Chế Lan Viên).
Cuộc
tập dượt phức tạp nhất chính là cuộc tập dượt đưa tới vẻ giản đơn tột cùng của
một hòa âm, R.Tagore nói
thế.
Hòa
âm của thi ca có được trước hết nhờ sự bình dị, thẳng ngay của tâm hồn người
cầm bút.
Nguyễn Hữu Quý
(Hết trích)
Sau cùng, trở
lại vụ ông Phan Hoàng – Hội phó Hội Nhà Văn TP.HCM . Trong việc ai đó chuyển câu
nói của ông: “Thơ dở là thơ rác” suy diễn thành “Thơ FB toàn là rác rưởi”, lại
còn chế thơ nịnh vợ của ông ấy thành thơ “luyện lưỡi liếm hàu” là việc làm có
thể nói là không đàng hoàng, dễ gây oan sai cho người khác.
Thơ là tiếng lòng của mỗi cá nhân, ông ấy không
thích thì đừng đọc. Thật sự, tôi cũng đã từng đọc thơ ông ấy, tôi thấy cũng
chẳng có chi để khen. Thế nhưng, tôi vẫn không cho thơ ông ấy là rác dù nó
chẳng có chút gì gọi là thơ, thế là tôi không thích đọc thơ của ông ấy nữa. Tôi
vẫn tôn trọng thơ ông bởi đó là bản chất, là suy nghĩ của ông, của riêng ông ấy,
nói lên con người của ông ấy
Đôi khi người
ta yêu bài thơ, thích câu thơ và trân trọng chép bài thơ, câu thơ ấy vào sổ tay
rồi ghi rõ tên tác giả, nguồn gốc xuất xứ vì họ rung động, đồng cảm, họ cảm xúc
với câu chữ, hình ảnh trong thơ. Cảm xúc rất riêng đó là sự tương giao giữa
người làm thơ và người đọc thơ. Mỗi người có một tư duy độc lập, thích hay
không thích đọc thơ của tác giả nào, viết theo thể loại nào là quyền và ý thích
của mọi người, không ai có thể áp đặt ý thích, cách nghĩ của mình lên người
khác. Đó cũng là suy nghĩ để tôi viết loạt bài này, và tôi xin khép lại vụ ông
Phan Hoàng tại đây.
Với riêng tôi
thì:
“Dù ai nói ngả
nói nghiêng
Lòng ta vẫn
vững như kiềng ba chân”
… … …
Người
ta làm thơ: cách tân,
tự do,
hiện đại…; lời gần ý xa.
Thơ
tôi mộc mạc thiệt thà
Gieo
câu sáu tám rất là… chân quê!
Hồn
nhiên sớm tối đi về
Mặc
ai rẻ rúng, khen chê dập vùi
Chân
thành câu lục buồn vui
Thẳng
ngay câu bát ngậm ngùi đa đoan.
Tôi
– người ở trọ trần gian
Cứ
rong chơi, cứ ngang tàng cùng thơ.
Tôi
là một kẻ lơ ngơ
Vịn
câu lục bát theo bờ mà đi.
Biết
tôi vốn chẳng là gì
Cứ
làm thơ giữa thị phi cuộc đời.
Lục
bát là lục bát ơi…!
Ngô
Chí Trung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét